Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra không ít những khó khăn thách thức đối với hệ thống ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại. Bởi theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của ngân hàng thương mại phải từ 9% trở lên, nếu tỷ lệ này không đảm bảo, ngân hàng thương mại sẽ không đủ khả năng mở rộng hoạt động, thậm chí còn đứng trước nguy cơ phá sản. Do vậy, nâng cao năng lực tài chính sẽ giúp ngân hàng thương mại thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra đối với ngân hàng thương mại.

Những bất cập sau 10 năm gia nhập “sân chơi” WTO

Khảo sát cho thấy, sau một thập kỷ tham gia vào “sân chơi” Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) (2007-2017), nền kinh tế Việt Nam giờ đây đã có những chuyển biến đáng kể về cơ cấu nền kinh tế, quản lý xã hội và tốc độ tăng trưởng sản xuất – kinh doanh.

Sự tiến bộ này biểu hiện cụ thể qua định hướng xây dựng kinh tế thị trường, sự gia tăng tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đặc biệt là cơ chế quản lý doanh nghiệp đã được cải thiện đáng kể… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn còn biểu hiện khá nhiều bất cập, cụ thể:

Thứ nhất, Việt Nam vẫn là nền kinh tế kém phát triển, năng suất lao động thấp. Năng suất lao động của người Việt Nam hiện nay chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, bằng 1/15 của Singapore… và kém xa so với các nước Tây Âu. Năng suất lao động thấp, làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Thứ hai, tốc độ cổ phần hóa DNNN còn chậm và không triệt để. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống các DN này còn quá nhiều bất cập, đó là: năng lực tài chính kém, tổ chức quản lý chưa kịp đà phát triển của kinh tế thị trường, tình trạng lãng phí tài nguyên, nhân lực và thất thoát tài chính còn khá phổ biến.

Thứ ba, số lượng NHTM Việt Nam còn lớn. Bên cạnh việc hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, hệ thống NHTM cũng biểu hiện nhiều cấp cập như: (1) Năng lực tài chính kém; (2) Chất lượng nhân lực không cao; (3) Phân bố không hợp lý; (4) Năng lực cạnh tranh yếu và không lành mạnh… Đây là những điểm yếu khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Thứ tư, vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam hiện nay giao động quanh ngưỡng từ 3.000 – 49.209 tỷ đồng. Con số này cho thấy, NHTM Việt Nam chỉ như một doanh nghiệp nhỏ trong “làng NHTM” của thế giới.

Thứ năm, nợ xấu hệ thống NHTM Việt Nam lớn, vượt tầm kiểm soát gây bất ổn đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Những vấn đề cần tập trung thực hiện

Nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại trên, hệ thống ngân hàng, nhất là các NHTM, ngoài việc nâng cao năng lực tài chính, thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:

Một là, tăng vốn chủ sở hữu – yếu tố quyết định năng lực tài chính để mở rộng kinh doanh: Việc tiếp tục tăng vốn chủ sở hữu của các NHTM trong nước là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là giúp NHTM có điều kiện thu hút thêm vốn, phát triển nhân lực, đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới, tăng cường cơ sở vật chất, tiếp thu kinh nghiệm quản trị điều hành theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

Theo đó, các NHTM sẽ phải chủ động thực hiện quy mô tăng vốn trong thời gian tới như: Tăng vốn chủ sở hữu nhằm ứng phó với rủi ro, đáp ứng yêu cầu về vốn theo khung an toàn Camel, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; Đảm bảo đúng nguyên tắc tín dụng, thu hồi vốn cho vay đúng hạn; Kiểm tra nghiêm ngặt các dự án đầu tư, đảm bảo nguyên tắc có lợi nhuận mới đầu tư…

Đồng thời, đẩy mạnh việc triển khai các phương án kinh doanh và nâng cao năng lực tài chính. Bởi vì, mục tiêu kinh doanh của NHTM là hướng đến ổn định, tích cực, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh; nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững vai trò chủ lực trên thị trường tiền tệ; cung ứng sản phẩm dịch vụ chất lượng cao, hoạt động kinh doanh tăng trưởng, an toàn, hiệu quả, bền vững.

Các NHTM cần sớm triển khai hoạt động kinh doanh theo hướng lấy hiệu quả làm mục tiêu trọng tâm, phấn đấu tăng tỷ lệ thu lãi nội bảng, thu nợ đã xử lý rủi ro, giảm chi phí trích dự phòng rủi ro và các chi phí khác; Nâng cao khả năng tài chính và tăng lợi nhuận cho NHTM, đảm bảo ổn định và cải thiện thu nhập, đời sống cho người lao động.

Hai là, nâng cao chất lượng tín dụng: Để nâng cao chất lượng tín dụng, các NHTM cần xây dựng riêng cho mình một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng chặt chẽ hơn, cụ thể: Xác lập mục tiêu tín dụng, trong đó mức độ rủi ro từ hoạt động tín dụng phải đo lường được; đồng thời, chất lượng của dự nợ tín dụng không chỉ được quan tâm ở tài sản có nội bảng, mà còn được chú ý ở các khoản mục tài sản ngoại bảng; Xây dựng, cập nhật chiến lược và chính sách quản lý rủi ro tín dụng, phù hợp với các quy định mới pháp luật Việt Nam và với các chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế.

Ba là, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: Triển khai giải pháp này, thời gian tới các ngân hàng cần luôn “làm mới” mình để đáp ứng nhu cầu hội nhập thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh việc duy trì các sản phẩm dịch vụ truyền thống, cần đẩy mạnh khai thác phát triển những sản phẩm mới như: Sản phẩm phái sinh, thu hút nguồn kiều hối trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối, các ngân hàng đại lý nước ngoài…

Cùng với đó, các ngân hàng cũng có chính sách khai thác và tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng; triển khai dịch vụ quản lý tài sản, ủy thác đầu tư, cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng… Đặc biệt là phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần hạn chế giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nâng cao tính thanh khoản của tiền đồng và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.

Đồng thời, đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với thủ tục đơn giản, an toàn nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, séc thanh toán, tiết kiệm…

Bốn là, nâng cao năng lực phát triển nguồn nhân lực ngân hàng: Muốn tăng cường năng lực cạnh tranh trong hội nhập, nhân sự của các NHTM không những phải đạt yêu cầu về số lượng mà còn phải đảm bảo về cả chất lượng, không chỉ ở nhân viên tác nghiệp mà ngay cả đối với nhân sự quản lý.

Tuy nhiên, để có được một lực lượng nhân sự đảm bảo cả về chất và lượng, các NHTM cần xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển của đơn vị. Theo đó, cơ cấu, sắp xếp, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tế phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài.

Đồng thời, tăng cường tuyển dụng mới những lao động trẻ, năng động để góp phần trẻ hoá đội ngũ lao động; Nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý sử dụng nhân lực có hiệu quả, đánh giá nhân viên gắn liền với tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu, coi trọng sử dụng nhân tài và khuyến khích tài năng nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong từng giai đoạn phát triển.

Cùng với đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực quản lý điều hành, kiến thức ngoại ngữ, khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại… từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách đồng đều và vững chắc theo hướng vừa chuyên sâu vừa tổng hợp, có khả năng cạnh tranh cao, luôn hướng tới khách hàng.

Ngoài ra, nghiên cứu, cải thiện đổi mới chính sách duy trì nguồn nhân lực như về chế độ tiền lương, chế độ phúc lợi, cơ hội thăng tiến… nhằm động viên nhân viên tận tâm, nhiệt thành với công việc, nâng cao năng suất làm việc.

Năm là, bảo toàn và nâng cao thương hiệu: NHTM cần có kế hoạch và lộ trình để bồi dưỡng, cập nhật các chính sách mới, đồng thời, quan tâm đào tạo các kỹ năng mềm cho cán bộ tác nghiệp, để đón trước thời cơ mở rộng giao dịch với khách.

Kỹ năng chuyên nghiệp cho đội ngũ giao dịch viên và chuyên viên quan hệ khách hàng tại NHTM cũng rất quan trọng, do vậy, các NHTM cần coi trọng việc đa dạng hóa phương thức đào tạo, quan tâm thích đáng đến hình thức đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học về kiến thức, về không gian, thời gian.

Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại không những hỗ trợ cho công tác quản trị, điều hành và kinh doanh của ngân hàng mà còn đem lại lợi ích cho khách hàng.

Công nghệ hiện đại đã tạo ra một bước đột phá mới trong khai thác sản phẩm, dịch vụ cả về số lượng và chất lượng, mang lại sự tiện dụng cho khách hàng, đồng thời tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác, qua đó khẳng định được đẳng cấp, tên tuổi, hình ảnh của ngân hàng. Dưới góc độ quản lý, nhờ có công nghệ thông tin mà việc quản lý nội bộ trong ngân hàng chặt chẽ hơn và công tác quản lý điều hành của Ban giám đốc sẽ tốt hơn.

Sản phẩm dịch vụ phong phú đa dạng dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Các sản phẩm đã triển khai đều được người tiêu dùng đánh giá có giá trị cạnh tranh: sản phẩm thẻ, chuyển tiền trong nước dựa vào lợi thế cạnh tranh riêng có về mạng lưới và máy rút tiền ATM rộng khắp toàn quốc.

Quy trình thực hiện giao dịch thống nhất cũng đã phần nào đơn giản hoá các giấy tờ, thủ tục gây phiền hà cho khách hàng. Việc thực hiện theo đúng quy trình khiến cho các hoạt động diễn ra nhanh chóng, chính xác và chuẩn hóa tối đa; Các sai sót dễ được phát hiện và kịp thời khắc phục.

Chất lượng phục vụ của NHTM cần được nâng cao tạo điều kiện để người tiêu dùng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn các dịch vụ phù hợp. Tuy nhiên, khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại thường có xu thế ít trung thành hơn so với những khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng truyền thống, do vậy, NHTM phải nghiêm túc đổi mới sản phẩm để thu hút khách hàng và nâng cao chất lượng đội ngũ giao dịch viên như là một yếu tố tất yếu để giữ chân khách hàng, bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững.

Sáu là, phát triển các dịch vụ ngân hàng số, ứng dụng công nghệ hiện đại: Trong bối cảnh hội nhập, việc áp dụng ngân hàng số, là bước đi bắt buộc trong tương lai gần đối với các NHTM. Tuy nhiên, để tiến tới trở thành Digitan Banking, các NHTM cần mở rộng các dịch vụ Internet Banking, Mobile Banking (E.Banking)… để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ ngân hàng và quan trọng hơn là mở rộng được thị trường – khách hàng, giảm thiểu chi phí và gia tăng lợi nhuận.

Thực tế cho thấy, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với kỹ thuật số điều khiển các hoạt động sản xuất – kinh doanh, trong đó có hoạt động của các NHTM đã trở thành hiện thực ở nhiều quốc gia; Mở ra triển vọng tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều NHTM ở các quốc gia có nền công nghiệp phát triển.

Do đó, nếu các NHTM Việt Nam ứng dụng được kỹ thuật ngân hàng số (Digital Banking), thì sẽ trở thành là ngân hàng hoàn hảo trong giai đoạn Cách mạng công nghiệp 4.0 với nhiều tính năng dịch vụ như: Chuyển tiền trong và ngoài hệ thống ngân hàng; Thanh toán các loại hóa đơn của khách hàng; Xử lý các dịch vụ tín dụng; Giải quyết nhu cầu gửi tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế – xã hội; Thực hiện các dịch vụ quản lý do các tổ chức và thể nhân ủy quyền…

Tài liệu tham khảo

1. TS. Nguyễn Trọng Tài, Cạnh tranh của các NHTM – Nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn;

2. Tạp chí Kế toán, Chiến lược cho các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế;

3. Viện nghiên cứu Khoa học ngân hàng, Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập;

4. TS. Võ Trí Thành, TS. Lê Xuân Sang, Tái cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam: vấn đề và định hướng những giải pháp cơ bản;

5. Các website: sbv.gov.vn, mof.gov.vn, sav.gov.vn, tapchitaichinh.vn…

Nguồn: Tạp chí tài chính

Bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra không ít những khó khăn thách thức đối với hệ thống ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại. Bởi theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của ngân hàng thương mại phải từ 9% trở… Xem bài viết