tài chính -ngân hàng
-
1. Giấy phép thành lập và hoạt động Ngân hàng thương mại cổ phần
1.1. Có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định là 3.000 tỷ đồng
1.2. Cổ đông sáng lập là pháp nhân đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực tài chính để tham gia góp vốn; cổ đông sáng lập là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có đủ khả năng tài chính để góp vốn
Điều kiện đối với chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là cổ đông sáng lập do Ngân hàng Nhà nước quy định
1.3. Người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định:
1.3.1. Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện sau đây:
– Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật các tổ chức tín dụng
– Có đạo đức nghề nghiệp
– Là cá nhân sở hữu hoặc người được ủy quyền đại diện sở hữu ít nhất 5% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp là thành viên Hội đồng thành viên, thành viên độc lập của Hội đồng quản trị hoặc có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật hoặc có ít nhất 03 năm là người quản lý của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp hoạt động trong ngành bảo hiểm, chứng khoán, kế toán, kiểm toán hoặc có ít nhất 05 năm làm việc trực tiếp tại các bộ phận nghiệp vụ trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, kiểm toán hoặc kế toán.
Thành viên độc lập của Hội đồng quản trị phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại mục 1.3.1 nêu trên và các tiêu chuẩn, điều kiện sau đây:
– Không phải là người đang làm việc cho chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng đó hoặc đã làm việc cho chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng đó trong 03 năm liền kề trước đó
– Không phải là người hưởng lương, thù lao thường xuyên của tổ chức tín dụng ngoài những khoản phụ cấp của thành viên Hội đồng quản trị được hưởng theo quy định
– Không phải là người có vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em và vợ, chồng của những người này là cổ đông lớn của tổ chức tín dụng, người quản lý hoặc thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng;
– Không trực tiếp, gián tiếp sở hữu hoặc đại diện sở hữu từ 1% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của tổ chức tín dụng; không cùng người có liên quan sở hữu từ 5% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của tổ chức tín dụng;
– Không phải là người quản lý, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng tại bất kỳ thời điểm nào trong 05 năm liền kề trước đó.
Thành viên Ban kiểm soát phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện sau đây:
– Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật các tổ chức tín dụng
– Có đạo đức nghề nghiệp;
– Có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, kế toán, kiểm toán; có ít nhất 03 năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, kế toán hoặc kiểm toán; nhiệm
– Không phải là người có liên quan của người quản lý tổ chức tín dụng
– Thành viên Ban kiểm soát chuyên trách phải cư trú tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm
Tổng giám đốc (Giám đốc) phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện sau đây:
– Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật các tổ chức tín dụng
– Có đạo đức nghề nghiệp;
– Có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật
– Có ít nhất 05 năm làm người điều hành của tổ chức tín dụng hoặc có ít nhất 05 năm làm
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu tối thiểu bằng mức vốn pháp định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật hoặc có ít nhất 10 năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kế toán hoặc kiểm toán;
– Cư trú tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm
Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc), Kế toán trưởng, Giám đốc Chi nhánh, Giám đốc công ty con và các chức danh tương đương phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện sau đây:
Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 33 của Luật các tổ chức tín dụng; đối với Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật các tổ chức tín dụng
Có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật hoặc lĩnh vực chuyên môn mà mình sẽ đảm nhiệm; hoặc có bằng đại học trở lên ngoài các ngành, lĩnh vực nêu trên và có ít nhất 03 năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính hoặc lĩnh vực chuyên môn mà mình sẽ đảm nhiệm;
Cư trú tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm.
Có Điều lệ phù hợp với quy định
Có Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tín dụng.
Điều kiện đối với cổ đông sáng lập
Chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp
Cam kết hỗ trợ ngân hàng thương mại cổ phần về tài chính để giải quyết khó khăn trong trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần khó khăn về vốn hoặc khả năng thanh khoản
Không phải là cổ đông sáng lập, chủ sở hữu, thành viên sáng lập, cổ đông chiến lược của tổ chức tín dụng khác
Có tối thiểu 02 cổ đông sáng lập là tổ chức;
Trong thời hạn 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau sở hữu tối thiểu 50% vốn điều lệ khi thành lập ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó các cổ đông sáng lập là tổ chức phải cùng nhau sở hữu tối thiểu 50% tổng số cổ phần của các cổ đông sáng lập;
Ngoài các điều kiện quy định tại mục 1.6.1, 1.6.2, 1.6.3, 1.6.5 nêu trên, cổ đông sáng lập là cá nhân phải đáp ứng các điều kiện sau:
Mang quốc tịch Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật
Không thuộc những đối tượng bị cấm theo quy định của Luật Doanh nghiệp
Có khả năng về tài chính để góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần; không được dùng vốn ủy thác, vốn vay của các tổ chức, cá nhân khác để góp vốn
Là người quản lý doanh nghiệp kinh doanh có lãi trong ít nhất 03 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoặc có bằng đại học, trên đại học chuyên ngành kinh tế hoặc luật
Ngoài các điều kiện quy định tại mục 1.6.1, 1.6.2, 1.6.3, 1.6.5 nêu trên, cổ đông sáng lập là tổ chức phải đáp ứng các điều kiện sau:
Được thành lập theo pháp luật Việt Nam
Có khả năng về tài chính để góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần và cam kết không được dùng vốn ủy thác, vốn huy động, vốn vay, của các tổ chức, cá nhân khác để góp vốn
Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và bảo hiểm xã hội theo quy định đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép
Có vốn chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng trong 05 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép
Kinh doanh có lãi trong 05 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép
Trường hợp là doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có yêu cầu vốn pháp định, phải đảm bảo vốn chủ sở hữu trừ đi vốn pháp định tối thiểu bằng số vốn góp cam kết theo số liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm liền kề thời điểm gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép;
Trường hợp là doanh nghiệp Nhà nước, phải được cấp có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản cho phép tham gia góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần theo quy định của pháp luật
Trường hợp là tổ chức được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm phải tuân thủ việc góp vốn theo các quy định liên quan của pháp luật
Trường hợp là ngân hàng thương mại:
Có tổng tài sản tối thiểu là 100.000 tỷ đồng, tuân thủ đầy đủ các quy định về quản trị rủi ro và trích lập dự phòng đầy đủ theo quy định tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép
Không vi phạm các tỷ lệ về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép
Tuân thủ điều kiện, giới hạn mua, nắm giữ cổ phiếu của tổ chức tín dụng theo quy định tại khoản 6 Điều 103 Luật các tổ chức tín dụng
Đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và đáp ứng đầy đủ điều kiện sau khi góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần
Văn bản quy phạm pháp luật
Khoản 9 Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12
Điều 18, 20, 21 và 50 Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12
Nghị định số 141/2006/NĐ-CP
Nghị định số 10/2011/NĐ-CP
Điều 9 Mục 2 Chương II Thông tư số 40/2011/TT-NHNN
Nguồn: Tuvanvietluat
-
Sự khác biệt giữa Ngân hàng Đầu tư và Ngân hàng Thương mại
Dựa trên công việc được thực hiện bởi các ngân hàng, ngành tài chính được chia thành hai phân khúc chính: ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại được thiết lập với mục đích thực hiện các giao dịch thương mại, chẳng hạn như nhận tiền gửi và cho vay tiền một cách hợp pháp đối với các khách hàng như cá nhân và doanh nghiệp.
Mặt khác, ngân hàng đầu tư được thành lập để cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư. Hoạt động của các ngân hàng đầu tư là khác nhau, và hoạt động như một trung gian giữa người mua và người bán cổ phiếu và trái phiếu, giúp khách hàng huy động vốn.
Trong khi ngân hàng đầu tư kiếm được hoa hồng bảo lãnh phát hành, thì ngân hàng thương mại thu lãi từ các khoản cho vay khách hàng. Có một ranh giới khác biệt giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại, được trình bày chi tiết trong bài viết này.
Biểu đồ so sánh
Cơ sở để so sánh
Ngân hàng đầu tư
Ngân hàng thương mại
Ý nghĩa
Ngân hàng đầu tư đề cập đến một tổ chức tài chính, cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán, dịch vụ môi giới, v.v.
Ngân hàng thương mại là ngân hàng cung cấp các dịch vụ như nhận tiền gửi, cho vay tiền, thanh toán theo lệnh đứng và nhiều dịch vụ khác.
Ưu đãi
Dịch vụ cụ thể của khách hàng
Dịch vụ tiêu chuẩn hóa
Kết hợp với
Tình hình hoạt động của thị trường tài chính.
Tăng trưởng kinh tế quốc gia và nhu cầu tín dụng
Cơ sở khách hàng
Vài trăm thôi
Hàng triệu
Ngân hàng đến
Cá nhân, chính phủ và tập đoàn.
Mọi công dân
Thu nhập = earnings
Phí, hoa hồng hoặc lợi nhuận từ các hoạt động giao dịch.
Thu nhập từ phí và lãi
Định nghĩa Ngân hàng Đầu tư
Thuật ngữ ngân hàng đầu tư được sử dụng để định nghĩa một tổ chức tài chính thực hiện các giao dịch tài chính phức tạp. Các ngân hàng này liên kết các tập đoàn lớn với các nhà đầu tư. Các ngân hàng phục vụ khách hàng của mình theo một số cách như hỗ trợ chính phủ và các tập đoàn phát hành chứng khoán, giúp các nhà đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, v.v. cung cấp các dịch vụ tư vấn, v.v.Các ngân hàng tạo ra thu nhập bằng cách tính phí cho các dịch vụ tư vấn của họ. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh thương mại của ngân hàng có thể có lãi hoặc lỗ. Các ngân hàng này đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các công ty hoặc chính phủ đưa ra các quyết định có kế hoạch tốt và dễ dàng huy động vốn. Các dịch vụ do ngân hàng đầu tư cung cấp như sau:
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Huy động vốn
Quản lý tài sản
Quản lý tài sản
Dịch vụ tư vấn
Trộn và lấy lại
Hỗ trợ các công ty thực hiện chào bán lần đầu ra công chúng (IPO)
Định nghĩa Ngân hàng Thương mại
Thuật ngữ ngân hàng thương mại dùng để chỉ một cơ sở tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng và tài chính nói chung cho công chúng. Trong thời gian trước đó, không có tổ chức nào như vậy mà mọi người có thể gửi tiền của họ một cách an toàn hoặc đi vay. Vì vậy, họ thường tìm đến những con cá mập để vay tiền, và gửi tiền vào bưu điện. Sau đó, các ngân hàng đang được phát triển để hoạt động như một chủ ngân hàng cho tất cả công dân của đất nước.
Các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu công cộng hoặc tư nhân hoặc do sự kết hợp của cả hai. Các ngân hàng hỗ trợ trong việc huy động tiền tiết kiệm trên toàn nền kinh tế. Nó được điều chỉnh bởi Đạo luật quy định ngân hàng của Ấn Độ, năm 1949.
Các ngân hàng chấp nhận tiền gửi của công dân trong nước với lãi suất danh nghĩa và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng cho các khách hàng khác (người đi vay), tính lãi suất cao hơn từ họ. Bằng cách này, các ngân hàng thương mại tạo ra thu nhập từ số tiền lãi còn lại. Ngoài ra, một trong những nguồn thu nhập chính của ngân hàng là các khoản phí mà họ thu để cung cấp các dịch vụ khác nhau cho công chúng. Các dịch vụ đa dạng của ngân hàng thương mại là:
Nhận tiền gửi
Cho vay ứng trước
Thấu chi và tín dụng tiền mặt
Thanh toán theo hướng dẫn thường trực
Rút tiền theo yêu cầu
Bộ sưu tập tín phiếu và kỳ phiếu
Kinh doanh cổ phiếu và giấy nợ thay mặt cho khách hàng
Kho đồ
Thẻ ATM, Thẻ ghi nợ, Thẻ tín dụng
Ngân hàng di động
Ngân hàng trực tuyến
Sự khác biệt chính giữa Ngân hàng Đầu tư và Ngân hàng Thương mại
Sự khác biệt cơ bản giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại được chỉ ra dưới đây:
Một trung gian tài chính được thành lập để cung cấp các dịch vụ đầu tư và tư vấn cho các công ty được gọi là ngân hàng đầu tư. Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thành lập để cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho công chúng.
Ngân hàng đầu tư cung cấp dịch vụ cụ thể cho khách hàng trong khi ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ tiêu chuẩn hóa.
Cơ sở khách hàng của ngân hàng thương mại tương đối cao hơn so với ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng đầu tư liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán trong khi tăng trưởng kinh tế và nhu cầu tín dụng ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi suất của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng đầu tư là chủ ngân hàng đối với cá nhân, chính phủ, tập đoàn, ... Mặt khác, ngân hàng thương mại là chủ ngân hàng đối với mọi công dân của đất nước.
Ngân hàng đầu tư tạo ra thu nhập từ phí và hoa hồng. Không giống như Ngân hàng Thương mại tạo ra thu nhập từ lãi và phí.
Phần kết luận
Sự khác biệt cơ bản giữa hai trung gian tài chính này là đối tượng mà họ phục vụ cũng như lĩnh vực kinh doanh của họ. Trong khi các ngân hàng thương mại phục vụ tất cả các công dân của đất nước và hoạt động kinh doanh chính của nó là nhận tiền gửi và cho vay. Các ngân hàng đầu tư kinh doanh chứng khoán và vì vậy hoạt động chính của nó là kinh doanh các tài sản tài chính và cung cấp các dịch vụ tư vấn.
Nguồn: living-in-belgium
-
Sự khác biệt giữa Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Phát triển
Ngân hàng thương mại là ngân hàng được tổ chức để thực hiện các dịch vụ ngân hàng công ích, chẳng hạn như nhận tiền gửi, cho vay tiền, ... Mặt khác, ngân hàng Phát triển đề cập đến một cam kết tài chính đa mục tiêu được thiết lập để cung cấp hỗ trợ tài chính cho lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp, nhằm khuyến khích phát triển.
Ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính của mọi quốc gia. Nếu hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả thì nó góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Mọi thành phần trong xã hội đều sử dụng các dịch vụ khác nhau do ngân hàng cung cấp cho các mục đích khác nhau.
Các ngân hàng được chia thành ba loại - Ngân hàng Hợp tác, Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Phát triển. Bây giờ chúng ta hãy thảo luận về sự khác biệt giữa Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Phát triển.
Bảng biểu so sánh
Cơ sở để so sánh
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Phát triển
Ý nghĩa
Ngân hàng Thương mại là những ngân hàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng và tài chính cơ bản cho các cá nhân và doanh nghiệp.
Ngân hàng Phát triển là những ngân hàng được thành lập để cung cấp tài chính cho phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế.
Thiên nhiên
Phản ứng
Chủ động
Thiết lập
Được thành lập theo Đạo luật Công ty, với tư cách là Công ty Ngân hàng.
Được thiết lập theo hành động chuyên biệt.
Nguồn quỹ
Gây quỹ từ việc chấp nhận tiền gửi công khai.
Vay, cho và bán chứng khoán.
Các khoản cho vay được cung cấp
Cho vay ngắn hạn và trung hạn
Cho vay trung và dài hạn
Sự định hướng
Lợi nhuận theo định hướng
Định hướng phát triển
Mục đích
Để kiếm lời bằng cách cho vay tiền với lãi suất cao.
Để đạt được lợi nhuận xã hội, bằng cách cung cấp vốn cho các dự án phát triển.
Các dịch vụ được cung cấp
Dịch vụ tư vấn Pháp lý, Kinh doanh và Điều tra Tín dụng được cung cấp với một khoản phí nhất định.
Dịch vụ tư vấn và cố vấn được cung cấp cho sự phát triển và thúc đẩy của doanh nghiệp.
Khách hàng
Cá nhân và Doanh nghiệp
Chính quyền
Định nghĩa Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng Thương mại, như tên gọi cho thấy, là một tổ chức tài chính định hướng lợi nhuận được thành lập để nhận tiền gửi từ công chúng, cung cấp dịch vụ tài khoản vãng lai, cho vay và cung cấp một loạt các sản phẩm tài chính cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh.
Ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa người gửi tiền và người đi vay. Nó trả lãi cho người gửi tiền đối với số tiền đã gửi với lãi suất thấp và cho người vay vay với lãi suất cao, tùy thuộc vào yếu tố rủi ro liên quan. Bằng cách này, ngân hàng thương mại kiếm tiền.
Lãi suất cung cấp cho người gửi tiền được gọi là lãi suất vay, trong khi tỷ lệ mà ngân hàng cho vay, được gọi là lãi suất cho vay. Sự khác biệt giữa cho vay và lãi suất đi vay được gọi là 'lây lan‘, Số tiền sinh lời.
Các khoản tiền gửi nhận được từ công chúng không chỉ cung cấp tiền mà còn tăng trách nhiệm cung cấp tính thanh khoản và an toàn, vốn hạn chế việc sử dụng chúng.
Các Ngân hàng Thương mại chủ yếu được chia thành Ngân hàng theo lịch trình và Ngân hàng không theo lịch trình. Hơn nữa, các ngân hàng dự kiến bao gồm các ngân hàng Quốc hữu hóa, Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ và các công ty con của nó, ngân hàng khu vực tư nhân và ngân hàng nước ngoài.
Các chức năng được thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại được chia thành hai loại - Chức năng chính và Chức năng phụ. Các chức năng này được mô tả như sau:
Chức năng chính
Chấp nhận tiền gửi
Tiết kiệm thời gian
Tiền gửi cố định
Gửi tiền định kỳ
Chứng chỉ tiền mặt
Tiền gửi
Tiết kiệm Tài khoản Ngân hàng Tiền gửi
Tiền gửi Tài khoản Hiện tại
Tạm ứng các khoản cho vay
Thấu chi
Tín dụng tiền mặt
Chiết khấu hóa đơn
Khoản vay và ứng trước
Tài chính Nhà ở
Khoản vay chống lại cổ phiếu / chứng khoán
Khoản vay chống lại chứng chỉ tiết kiệm
Cho vay tiêu dùng và ứng trước
Chứng khoán hóa các khoản cho vay
Chức năng phụ
Dịch vụ đại lý
Kinh doanh ngoại hối
Bộ sưu tập séc, lãi suất và cổ tức.
Mua bán chứng khoán
Lập tờ khai thuế thu nhập
Thanh toán tiền thuê nhà, hóa đơn điện, phí bảo hiểm, v.v.
Hoạt động như những người thực thi Di chúc.
Dịch vụ Tiện ích Chung
Cơ sở khóa an toàn
Kiểm tra quà tặng
Cơ sở ATM
Cung cấp thông tin và thống kê thương mại
Cơ chế thanh toán, tức là chuyển tiền
Séc du lịch
Thư tín dụng
Thẻ tín dụng
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Dịch vụ tư vấn
Chấp nhận hóa đơn
Ngân hàng thương mại
Chức năng đầu tư
Tạo tín dụng
Định nghĩa Ngân hàng Phát triển
Ngân hàng Phát triển là một tổ chức tài chính chuyên biệt được thành lập để cung cấp các cơ sở hạ tầng, khuyến khích phát triển khu vực công nghiệp và nông nghiệp bằng cách cung cấp các khoản vay trung và dài hạn.
Nó cũng cung cấp các dịch vụ khác như bảo lãnh phát hành cổ phiếu, hoạt động đầu tư và bảo lãnh và các hoạt động khuyến mại cho các thực thể kinh doanh. Chức năng chính của ngân hàng phát triển là cấp tín dụng cho các dự án đầu tư thâm dụng vốn, thường là dài hạn, có tỷ suất sinh lợi thấp.
Mục tiêu của Ngân hàng Phát triển
Khuyến khích tăng trưởng công nghiệp.
Để tạo cơ hội việc làm.
Để hồi sinh các đơn vị bị bệnh.
Khuyến khích các dự án tự kinh doanh.
Để xóa bỏ sự mất cân bằng khu vực.
Phát triển các vùng lạc hậu.
Phát triển lĩnh vực nhà ở.
Thúc đẩy và cung cấp tài chính cho các ngành công nghiệp quy mô nhỏ.
Tạo điều kiện mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp quy mô lớn.
Sự khác biệt chính giữa Ngân hàng Thương mại và Phát triển
Sự khác biệt giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng phát triển có thể được rút ra rõ ràng trên các cơ sở sau:
Ngân hàng Thương mại là các ngân hàng được thành lập để đảm nhận các dịch vụ ngân hàng cơ bản cho công chúng.Mặt khác, các Ngân hàng Phát triển là các tổ chức tài chính, được thành lập để cung cấp vốn cho các công ty và dự án mới và mới thành lập liên quan đến phát triển kinh tế, nông nghiệp và công nghiệp.
Ở Ấn Độ, ngân hàng thương mại được thành lập dưới dạng công ty cổ phần, gọi là công ty ngân hàng. Mặt khác, các Ngân hàng Phát triển được thành lập theo đạo luật chuyên biệt, được quốc hội thông qua.
Ngân hàng phát triển về bản chất là chủ động vì nó đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các dự án và phát triển các công ty mới thành lập. Ngược lại, các ngân hàng thương mại phản ứng nhanh về cơ hội kinh doanh, bởi vì nó đòi hỏi khả năng ngân hàng, sau khi quyết định của doanh nhân được đưa ra, sau đó ý tưởng được xem xét.
Các ngân hàng thương mại huy động vốn bằng cách chấp nhận tiền gửi của công chúng. Ngược lại, các Ngân hàng Phát triển huy động vốn từ việc đi vay, tài trợ của chính phủ và bán chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn và trung hạn, trong khi các ngân hàng phát triển cho vay trung và dài hạn.
Ngân hàng Thương mại là chủ thể kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Ngược lại, các Ngân hàng Phát triển được thành lập để khuyến khích sự phát triển.
Các Ngân hàng Thương mại nhằm mục đích kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay tiền với lãi suất cao. Ngược lại, các ngân hàng phát triển nhằm đạt được lợi nhuận xã hội, bằng cách cung cấp vốn cho các dự án thâm dụng vốn.
Các Ngân hàng Thương mại cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn kinh doanh và dịch vụ Điều tra tín dụng được cung cấp với một khoản phí nhất định. Ngược lại, dịch vụ tư vấn và cố vấn được cung cấp cho sự phát triển và thúc đẩy của doanh nghiệp, bởi một ngân hàng phát triển.
Các ngân hàng thương mại giao dịch với công chúng và các tổ chức kinh doanh, trong khi các ngân hàng phát triển giao dịch với chính phủ.
Phần kết luận
Các ngân hàng có quyền phát hành kỳ phiếu, để lưu thông tiền dưới dạng tiền giấy, cũng như gửi tiền nhận được từ công chúng và ứng trước giống như các khoản cho vay đối với những người xin nó.
Nguồn: LIVING-IN-BELGIUM
-
Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021
Ngày 13/7/2021, Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) chính thức công bố danh sách Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021. Đây là hoạt động thường niên do Vietnam Report nghiên cứu và công bố từ năm 2012.
Danh sách Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021, tháng 7/2021
Danh sách Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2021, tháng 7/2021
Ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm 2021: Những điểm sáng
Năm 2020, cơn bão mang tên Covid-19 đổ bộ trên toàn cầu đã làm cho nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, sản xuất đình trệ, và nhu cầu tiêu dùng giảm sút. Đây cũng là năm mà thiên tai diễn biến bất thường khiến cho nền kinh tế càng thêm khó khăn. Trong bối cảnh đó, ngành Ngân hàng không chỉ làm tốt chức năng cung ứng, phân bổ vốn mà còn có một vai trò đặc biệt hơn – tiếp sức cho nền kinh tế, triển khai các giải pháp để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua thách thức bởi đại dịch và thiên tai. Dù chịu nhiều ảnh hưởng gián tiếp của đại dịch Covid-19, kết thúc năm 2020, lợi nhuận của các ngân hàng vẫn tăng trưởng khá, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng đạt 12,13%, cao hơn so với mức tăng trưởng của 2019, hệ thống ngân hàng được đánh giá an toàn và lành mạnh hơn, thể hiện khả năng chống chịu rủi ro tốt trước cú sốc bên ngoài và nhiều dấu ấn nổi bật khác.
Khi những dư âm của thiên tai, dịch bệnh từ năm 2020 vẫn còn tác động đến nền kinh tế, đến đầu năm 2021, Covid-19 quay trở lại mang theo những biến thể mới, càn quét với cường độ mạnh hơn trong quý II tại nhiều tỉnh thành kinh tế trọng điểm của cả nước. Cùng với khó khăn chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng gặp nhiều thách thức, nhưng vẫn có thể thấy những điểm sáng của ngành ngân hàng trong nửa đầu năm 2021.
Điểm sáng thứ nhất, kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ. Sau một năm đầy biến động và thử thách, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ khởi sắc hơn trong năm 2021 với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính phủ đặt ra là 6,5% trong năm nay. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64%. Ngân hàng, một ngành được coi là huyết mạch của nền kinh tế, cũng đang hưởng lợi từ sự phục hồi đó. Kết quả trong những tháng đầu năm giúp chúng ta có thể thấy, nhu cầu sử dụng các dịch vụ, sản phẩm của các ngân hàng tiếp tục xu hướng tăng mạnh. Báo cáo của Tổng cục Thống kê trong 6 tháng đầu năm 2021, tính đến thời điểm 21/6, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,47%, tăng trưởng gấp hai lần so với cùng kỳ năm 2020. Bất chấp tác động của đại dịch, lợi nhuận của ngành ngân hàng vẫn tăng trưởng cao, có hơn chục ngân hàng ghi nhận lợi nhuận nghìn tỷ, chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu vẫn được kiểm soát tốt. Theo dữ liệu của FiinGroup, tổng thu nhập hoạt động trong quý I/2021 tăng 28,4% so với cùng kỳ. Đầu tháng 7, một số ngân hàng công bố kết quả kinh doanh với sự bứt phá mạnh mẽ, dự báo sẽ có nhiều kỷ lục mới trong bức tranh lợi nhuận của ngành ngân hàng.
Những số liệu này cũng cho thấy gần như ngành ngân hàng đã bước được vào nền tăng trưởng mới với các yếu tố hỗ trợ như là lãi suất huy động ở mức thấp, trong khi lãi suất cho vay giảm chưa tương ứng, thêm vào đó nhiều ngân hàng còn huy động được lượng lớn trái phiếu kỳ hạn dài với lãi suất thấp, giúp cho biên lãi ròng của ngân hàng được cải thiện.
Điểm sáng thứ hai, sự ra đời của chính sách mới. Đó là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của NHNN, các Bộ, ban ngành đối với sự phát triển tăng trưởng tín dụng thực chất của ngành ngân hàng và ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN về việc cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn lãi vay do ảnh hưởng dịch Covid-19. Các chuyên gia trong khảo sát của Vietnam Report đánh giá Thông tư 03 đối với các ngân hàng như “nắng hạn gặp mưa rào”, mang tính nhân văn đối với cả tổ chức tín dụng và bên đi vay. Nếu không có Thông tư 03, các ngân hàng sẽ phải trích lập rất mạnh mẽ các khoản nợ xấu trong năm nay nhưng với Thông tư này khoảng thời gian đã được giãn ra trong 3 năm. Việc trích lập dự phòng cụ thể tùy thuộc sự chịu ảnh hưởng từ chất lượng dự nợ cho vay của ngân hàng. Nhiều ngân hàng có dòng tiền ổn định đã chủ động trích lập dần trong từng quý để chuẩn bị “bộ đệm” lớn hơn cho dự phòng rủi ro có thể xảy ra.
Điểm sáng thứ ba, nhóm ngân hàng ghi nhận những câu chuyện về phát hành bán vốn, bán công ty con cho nước ngoài.Giữa bối cảnh dịch bệnh bùng phát, mà gần như khối ngoại rút ra khỏi thị trường chứng khoán (TTCK), bán ròng rất mạnh mẽ, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn nhìn thấy được cơ hội trong các giao dịch tài sản của ngân hàng. Điển hình như trường hợp VPbank bán được 49% vốn của Fecredit cho tập đoàn của Nhật Bản, một kế hoạch khác trong tương lai như HDbank cũng bán mảng tín dụng cho ngân hàng nước ngoài.
Điểm sáng thứ tư, tài chính phi tín dụng tiếp tục được gia tăng. Trong bối cảnh dịch bệnh, 6 tháng đầu năm 2021, nhóm ngân hàng tiếp tục tăng mạnh quy mô và tỷ trọng thu nhập phí dịch vụ, thu nhập ngoài lãi như bảo lãnh khách hàng, bão lãnh thư tín dụng (LC), thanh toán không dùng tiền mặt, liên kết với công ty bảo hiểm để bán chéo sản phẩm (Bancassurance), chứng khoán v.v. Điều này giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) phát triển toàn diện hơn, không còn lệ thuộc vào chỉ tiêu tín dụng, đồng thời giảm thiểu rủi ro và cải thiện cơ cấu nguồn thu theo hướng bền vững.
Triển vọng tăng trưởng của ngành ngân hàng năm 2021: Khả quan nhưng không quá tích cực trước những lo ngại về diễn biến khó lường của đại dịch
Kết quả khảo sát chuyên gia và ngân hàng của Vietnam Report trên thang Li-kert 5 điểm đã chỉ ra top 3 yếu tố vĩ mô ảnh hưởng nhất đến kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng trong năm 2021, đó là: Sự bùng phát đại dịch trở lại trên diện rộng (4,73/5); Sự phục hồi của kinh tế vĩ mô (4,55/5); Chính sách, quy định của Nhà nước lĩnh vực Ngân hàng (4,36/5). Trên khía cạnh vi mô, xét trong ngân hàng, 3 yếu tố ảnh hưởng nhất: Khả năng áp dụng công nghệ số trong các dịch vụ ngân hàng (4,73/5); Hệ thống quản lý rủi ro và công tác kiểm soát nội bộ (4,64/5); Chất lượng sản phẩm, dịch vụ (4,55/5).
Với những yếu tố thuận lợi đến từ nền kinh tế toàn cầu đang phục hồi, sự hỗ trợ về mặt chính sách, lãi suất thấp tiếp tục được duy trì, cùng sự linh hoạt trong điều hành của ngân hàng khi chuyển hướng mạnh mẽ trong cơ cấu hoạt động và tăng cường đầu tư công nghệ số, có 52,94% chuyên gia và ngân hàng trong khảo sát của Vietnam Report nhận định ngành ngân hàng trong năm 2021 sẽ tăng trưởng khả quan, tốt hơn một chút. Theo đó, tăng trưởng tín dụng cả năm có thể tương đương hoặc cao hơn mức tăng trưởng 12,13% của năm ngoái một chút. Mặc dù kết quả kinh doanh của nhóm ngành ngân hàng trong những tháng đầu năm có sự vượt trội hơn so với nhiều ngành khác, nhưng các chuyên gia đánh giá tăng trưởng cả năm chỉ đạt ở mức khả quan, không quá tích cực do tăng trưởng tín dụng của nhóm ngân hàng thiên về nhiều yếu tố chưa thực chất, còn tiềm ẩn những rủi ro, thách thức, nhất là khi dịch bệnh đang diễn biến khó lường, chưa được kiểm soát.
Nguồn: vietnamnet