Thêm kết quả...

Tư vấn luật

Các đặc điểm của nghề Luật sư

Luật sư là một nghề nghiệp đặc biệt, được xuất phát từ nguyên tắc quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, nhà nước pháp quyền, dân chủ trong xét xử, tư pháp độc lập và thi hành pháp luật. Do đó Luật sư không chỉ là người có trình độ pháp lý đơn thuần, mà còn phải có đạo đức phù hợp và có kỹ năng nghề nghiệp. Bài viết này nghiên cứu, phân tích để chỉ ra những đặc trưng cơ bản của nghề Luật sư.

Đặc điểm của nghề Luật sư được nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau và đôi khi thiếu rõ ràng. Trong “Giáo trình Luật sư và nghề Luật sư” của Học viện Tư pháp, các đặc điểm của nghề Luật sư không được nghiên cứu một cách tập trung mà được diễn giải rộng ra ở các lĩnh vực khác nhau liên quan tới hành nghề, chức năng xã hội, đối tượng khách thể nghề nghiệp, quản lý với nghề nghiệp Luật sư, đặc thù của nghề Luật sư[1].

Theo Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài, “hoạt động Luật sư” có những thuộc tính thể hiện bản chất của loại hoạt động này như: (1) tuân thủ pháp luật; (2) dân chủ; (3) độc lập; (4) phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội; và (5) phụ thuộc uy tín nghề nghiệp của cá nhân[2]. Những cách tiếp cận này cho chúng ta thấy rất rõ vai trò, vị trí của nghề Luật sư trong xã hội, cũng như những khó khăn thách thức mà Luật sư cần vượt qua trong hoạt động nghề nghiệp của mình, nhưng chưa hoàn toàn làm rõ được nghề Luật sư khác gì với những nghề còn lại trong xã hội, đặc biệt với những nghề luật khác.

Nghề luật nói chung là một nghề nhiều thách thức nhất trên thế giới bởi vào mọi thời điểm, người hành nghề đều phải trải qua quá trình khắc nghiệt của tư duy, toan tính và lý lẽ mà chưa kể tới khi họ đóng vai trò thiết kế chính sách, tư vấn pháp lý, xét xử hay đại diện cho khách hàng thông thường trước tòa án[3]. Vì vậy, trước hết Luật sư mang những đặc điểm chung của nghề luật. Lý do chính của sự tồn tại nghề luật là sự đòi hỏi của xã hội đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật để điều tiết các quan hệ phát sinh trong chính nó và phòng ngừa hay chống lại sự vi phạm sự điều tiết đó. Chỉ khi có sự xuất hiện của một thiết chế nhằm phân xử những sự vi phạm đó, nghề luật mới ra đời. Thiết chế đó là tòa án – nơi những người chuyên lo việc xét xử tiến hành công việc của mình. Khi chưa có tòa án, trong các bộ lạc, thôn, bản…, những vi phạm quy tắc chung của cộng đồng đã được phán xử bởi những nhân vật mà cộng đồng chấp nhận theo tập quán, chẳng hạn như thủ lĩnh bộ lạc, già làng, trưởng bản… Tuy nhiên, những hoạt động phân xử đó không thể được xem như một nghề nghiệp. Tiếp theo sự ra đời của thiết chế tòa án, một loạt nghề nghiệp liên quan theo đó mà xuất hiện hoặc tồn tại và có sự mở rộng nhất định. Do đó nghề luật nói chung là một nghề nghiệp gắn liền với việc đòi hỏi tuân thủ pháp luật, chứ không phải là gắn cả với việc làm ra luật như quan niệm của Học viện Tư pháp[4]. Đặc điểm gắn với việc đòi hỏi tuân thủ pháp luật của nghề luật khác với quan niệm của Phan Trung Hoài cho rằng nghề Luật sư nói riêng và nghề luật nói chung phải tuân thủ pháp luật. Tuân thủ pháp luật là một đòi hỏi chung mang tính khách quan đối với toàn bộ đời sống xã hội. Bất kể ai, dù hành nghề hay không hành nghề luật, hoặc dù hành nghề nào đi chăng nữa thì đều phải tuân thủ pháp luật. Nghề luật là nghề bảo đảm việc tuân thủ pháp luật bằng cách thức tổng quát là cưỡng chế hay khuyên răn hoặc ngăn cản. Đôi khi ngăn cản cả việc bất tuân thủ pháp luật của chính bản thân những người hành nghề luật. Chẳng hạn: quan hệ giữa viện kiểm sát nhân dân với tòa án nhân dân, giữa tòa án cấp trên với tòa án cấp dưới, giữa Luật sư với thẩm phán thể hiện rất rõ sự ngăn cản việc bất tuân thủ pháp luật của chính bản thân những người hành nghề luật. Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) của Việt Nam có một chương riêng quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (từ Điều 367 đến Điều 391) với nhiều tội danh liên quan tới cấm hay ngăn cản các hành vi trong một số hoạt động nghề luật.

Luật sư là một nghề nghiệp đặc biệt không chỉ liên quan tới vấn đề pháp lý đơn thuần, mà còn liên quan tới việc bảo đảm cho tổ chức đời sống chính trị của một quốc gia xuất phát từ nguyên tắc quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, nhà nước pháp quyền, dân chủ trong xét xử, tư pháp độc lập và thi hành pháp luật. Do đó Luật sư không chỉ là người có trình độ pháp lý đơn thuần, mà còn phải có đạo đức phù hợp và có kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên không phải vì thế mà có thể cho rằng hoạt động nghề nghiệp của Luật sư mang bản chất dân chủ mặc dù sự ra đời của nền dân chủ luôn luôn là cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy nghề nghiệp Luật sư. Trong nền pháp lý phát sinh ra nghề Luật sư từ thủa ban đầu, không có quan niệm dân chủ như ngày nay và thực tế có sự bất bình đẳng giới và bất bình đẳng sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội. Như đã biết, nghề Luật sư xuất hiện đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại. Lúc đó về chính trị, ở Hy Lạp cổ đại, người ta có xu hướng cho phép thường dân tham gia vào đời sống quốc gia làm xuất hiện tầng lớp công dân tự do, thế nhưng vẫn giữ nguyên chế độ nô lệ[5].

Tất cả các vấn đề dân chủ, nhà nước pháp quyền, bình đẳng hay độc lập xét xử nếu có thì luôn luôn trở thành những nguyên tắc hay những chế định quan trọng của pháp luật. Do đó khi nói tới đặc điểm “gắn với việc đòi hỏi tuân thủ pháp luật” của nghề luật nói chung và nghề Luật sư nói riêng là đã nói tới việc bảo đảm thi hành các nguyên tắc hay các chế định đó. Nhược bằng các nguyên tắc hay các chế định đó không có hay chỉ có mang tính hình thức trong pháp luật thì cũng không thể nói nghề Luật sư biến mất nếu như Luật sư vẫn được hoạt động dù mang tính hình thức. Dưới các chế độ độc tài trước kia, Luật sư vẫn được phép hoạt động, có thể đơn giản như là một thủ tục tại tòa án. Chẳng hạn các phiên tòa xét xử các đảng viên đảng cộng sản dưới chế độ Đức quốc xã.

Nguyễn Văn Tuân cho rằng nghề Luật sư có các đặc thù như: (1) nghề Luật sư đòi hỏi những người hành nghề Luật sư phải có trình độ chuyên môn và có tính chuyên nghiệp cao; (2) Luật sư hành nghề độc lập và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước khách hàng về hoạt động nghề nghiệp của mình; (3) Luật sư là một nghề không chỉ đòi hỏi về chuyên môn cao, mà còn đòi hỏi người hành nghề phải có tư cách đạo đức tốt[6]. Đây là những phân tích rất sâu và hữu ích không chỉ cho việc nghiên cứu lý luận, mà còn cho hoạt động thực tiễn hành nghề Luật sư. Tuy nhiên đây là các phân tích về Luật sư hơn là phân tích về nghề Luật sư.

Nghề Luật sư có những đặc điểm sau trong sự đối sánh với các nghề nghiệp khác:

Thứ nhất, nghề Luật sư là một nghề nghiệp được thực hiện bởi các Luật sư – những người được đào tạo đặc biệt để có trình độ pháp lý, kỹ năng pháp lý và đạo đức nghề luật thích hợp. Đặc điểm này nói tới chủ thể của hoạt động Luật sư (như trên đã nói bao gồm: tranh tụng, tư vấn, đại diện…). Chính bởi tính chất đặc biệt về chuyên môn của loại hoạt động này và sự tác động lớn của nó tới cá nhân cụ thể và cộng đồng, nên đòi hỏi phải có một loại chủ thể đặc biệt. Thông thường nghề luật sư lựa chọn những người đã có trình độ pháp lý cao và có đạo đức thích hợp để đào tạo nghề. Hầu hết các nước đi theo khuynh hướng này chứ không lựa chọn những người bình thường để đào tạo luật sư. Trong khi đó hầu hết các nghề nghiệp khác đào tạo những người bình thường để có trình độ, kỹ năng và đạo đức phù hợp, trừ những yêu cầu nghề nghiệp đặc biệt về sức khỏe (như quân đội, thợ mỏ, hàng hải…), về năng khiếu (như kiến trúc, nghệ thuật…). Bác sĩ y khoa không bắt đầu từ những người đã có trình độ y học nhất định. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới, người ta đào tạo bác sĩ y khoa từ những người bình thường tốt nghiệp trung học phổ thông. Đối với nghề kiến trúc sư cũng vậy, nhưng bắt đầu từ người có năng khiếu nhất định về hội họa, tốt nghiệp trung học phổ thông… Đặc điểm này của nghề Luật sư dẫn tới sự khác biệt lớn trong quy chế vào nghề của Luật sư so với quy chế vào nghề của thương nhân và những người cung cấp dịch vụ khác mà đòi hỏi pháp luật phải chú ý.

Thứ hai, nghề Luật sư là một nghề nghiệp tự do. “Luật sư độc lập trong hành nghề và tự chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của mình”[7]. Đặc điểm này của nghề Luật sư hình thành do chính tính chất hoạt động “không thể dựa dẫm” của Luật sư liên quan tới từng hoàn cảnh cụ thể quy định (vụ việc cụ thể, hoàn cảnh tư vấn cụ thể…). Đặc điểm này tác động rất lớn tới việc tổ chức hành nghề luật sư. Vì vậy, việc quản lý nhà nước đối với luật sư cũng có những tính chất riêng biệt so với việc quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực thương mại hoặc dịch vụ khác. Rất nhiều ý kiến hiện nay cho thấy: số lượng luật sư được cấp thẻ hành nghề thì đông, nhưng số lượng luật sư hành nghề và kiếm sống được bằng nghề luật sư một cách thực chất đúng với nghĩa là hành nghề luật sư thì không nhiều, có thể chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tổng số các luật sư được cấp thẻ hành nghề. Số luật sư này cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp toàn thời gian không nhiều. Số lượng luật sư làm theo kiểu “thời vụ” hoặc một phần thời gian cho thấy việc ràng buộc luật sư vào một tổ chức nhất định không phải là một khâu quản lý có tính chất bắt buộc.

Thứ ba, nghề nghiệp luật sư là một nghề cung cấp dịch vụ có đối khoản được lượng hóa rất tương đối. Dịch vụ mà luật sư cung cấp có các chức năng: (1) chức năng chỉ dẫn; và (2) chức năng phản biện. Đây là các chức năng chủ yếu của luật sư đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Luật sư, tức là Luật sư khi bán ra dịch vụ pháp lý và luôn thu lại một đối khoản thể hiện đúng tính chất luật sư là một nghề nghiệp, trừ những hoạt động có tính chất đóng góp cho xã hội gần giống như trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, ví dụ như trợ giúp pháp lý, phổ biến, tuyên truyền pháp luật không lấy tiền. Bởi Luật sư là những người am hiểu tường tận về pháp luật và cả những đường lối cũng như cách thức xử lý các vi phạm pháp luật, cho nên luật sư cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý nhằm chỉ dẫn cho khách hàng hành xử đúng pháp luật trong các hoạt động sống của mình và góp phần phản biện để áp dụng đúng pháp luật cho những vụ việc tranh chấp cụ thể được đưa ra các cơ quan tài phán. Tuy nhiên, sự bù đắp công sức do luật sư bỏ ra và sự sáng tạo do luật sư đem lại luôn là vấn đề gây tranh luận. Sự bù đắp ở đây chỉ có tính tương đối trên những cơ sở thiếu chắc chắn, nhất là đối với những gì mà luật sư sáng tạo ra trong việc hiểu pháp luật và tìm kiếm giải pháp cho tranh chấp cụ thể đó, góp phần phát triển án lệ.

Thứ tư, nghề nghiệp Luật sư là một nghề “bán kinh doanh”. Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài viết: “Chức năng xã hội của Luật sư được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng nhu cầu pháp lý của người dân một cách minh bạch và tạo ra cho người dân nhận biết chân thực và công bằng các nhu cầu chính đáng ấy”, và với chức năng này thì “Phẩm chất của Luật sư trong điều kiện hiện nay được đánh giá không chỉ là người tuân thủ pháp luật, có kỹ năng và kỷ luật, trình độ tinh thông nghề nghiệp, tận tâm với khách hàng, mà còn phải là người có tấm lòng yêu thương đối với xã hội, có lối sống lành mạnh, lòng đầy tự tin vào chính nghĩa, tin vào công bằng xã hội”[8]. Vì vậy, Luật sư không chỉ đơn thuần cung cấp dịch vụ để lấy tiền như những nghề nghề nghiệp khác, mà còn là những người đóng góp trực tiếp cho việc bảo đảm tuân thủ pháp luật. Hoạt động kinh doanh đơn thuần thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ mà giá cả của nó do quan hệ cung cầu quyết định đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Còn trong nghề Luật sư, mỗi hoạt động cung cấp dịch vụ đơn lẻ đều đóng góp trực tiếp cho sự tuân thủ pháp luật và bình ổn của xã hội.

Các đặc điểm của nghề Luật sư thể hiện trong pháp luật một số nước

Như trên nói, nghề Luật sư có các đặc điểm khác biệt so với hầu hết các ngành nghề khác, do dó dẫn đến Luật sư phải chịu một quy chế pháp lý khá ngặt nghèo về tiêu chuẩn vào nghề, về chuẩn mực trong hành nghề và về kỷ luật cũng như chấm dứt hành nghề.

Luật Nhất thể Nghề luật của New South (Australia) năm 2014 (Legal Profession Uniform Law (NSW) (2014 No 16a) nói rằng: Mục đích của các quy định về tiêu chuẩn vào nghề Luật sư nhằm bảo đảm nghề nghiệp pháp lý được tiến hành chỉ bởi những người có phẩm chất riêng để tiến hành nghề nghiệp đó vì lợi ích của việc thi hành công lý, và bảo vệ khách hàng của thực hành nghề luật bởi bảo đảm rằng những người tiến hành nghề nghiệp pháp lý được phép làm như vậy (Điều 9). Đạo luật này tại ngay Điều 10 quy định cấm bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào thực hành nghề luật mà không đủ tiêu chuẩn. Chế tài vi phạm điều cấm này là một khoản phạt tiền lên tới 250 đơn vị phạt (penalty units) theo đạo luật về chống tội phạm của New South Wales hoặc 02 năm tù hoặc cả hai hình phạt đó. Đạo luật này còn quy định một tổ chức hoặc cá nhân không được phép thu tiền mà vi phạm quy định cấm nói trên, nhất thiết phải trả lại khoản tiền đó (Điều 10).

Đạo luật về nghề luật (The Jamaica Legal Profession Act) ngày 03/01/1972 của Jamaica quy định một người được phép hành nghề luật khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:

(1) Có chứng chỉ về năng lực;

(2) Đủ 21 tuổi;

(3) Không phải là công dân nước ngoài; và

(4) Có đạo đức tốt (Điều 6, khoản 1).

Điều 8, khoản 1 của đạo luật này của Jamaica quy định chế tài rất nghiêm khắc đối với người không được vào nghề mà tiến hành hoạt động nghề nghiệp như một luật sư như sau: phạt năm trăm nghìn đô la cho lần thứ nhất vi phạm và một triệu đô la cho lần thứ hai và các lần tiếp theo vi phạm hoặc một năm tù hoặc cả hai hình phạt tiền và tù. Đạo luật này cũng sử dụng chế tài như vậy đối với những hành vi tạo dựng hay sử dụng tên hoặc danh nghĩa hoặc bộ điệu ngụ ý mình có đủ phẩm chất hay được thừa nhận là một luật sư (Điều 8, khoản 2). Những công việc của những người vi phạm như vậy dù thực hiện dưới danh nghĩa hay đại diện cho một luật sư thực sự thì đều không được nhận phí (Điều 8, khoản 3 và 4).

Đạo luật về nghề luật (Legal Profession Act) năm 1966 (được sửa đổi năm 2009) của Singapore quy định người có đủ năng lực chỉ được vào nghề để trở thành luật sư tranh tụng (advocate) và luật sư tư vấn (solicitor) khi đáp ứng các tiêu điều kiện sau:

+ Đủ 21 tuổi;

+ Có đức tính tốt;

+ Đã trải qua một quá trình huấn luyện đạt kết quả khả quan;

+ Đã tham dự và hoàn thành khóa học do nhà chức trách có thẩm quyền chỉ định;

+ Đã qua kỳ thi do nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức (Điều 13).

Đặc tính quan trọng nhất hệ thống pháp luật Đức là tất cả các nghề luật được cùng giáo dục nghề nghiệp như nhau (the same professional education). Lars Gerold giới thiệu: Từ thế kỷ thứ 19, luật được nghiên cứu tại trường đại học, và hai năm tiếp theo, thực tập sinh pháp luật (judicial traineeship) được huấn luyện và chi trả bởi nhà nước để học tập và huấn luyện làm tất cả các vị trí như thẩm phán, công tố, quản lý hành chính và luật sư hay cố vấn pháp lý, rồi sau đó những thực tập sinh đáp ứng được các tiêu chuẩn gia nhập các Luật sư đoàn không cần phải qua kiểm tra[9].

Luật sư có thể thực hiện nhiều chức năng hay nhiệm vụ khác nhau với các vai trò khác. Luật sư có thể là đại diện cho khách hàng (như làm đại diện cho thân chủ trong những vụ việc dân sự, trong vụ án hình sự hay trong thương lượng…) hoặc là một bên thứ ba trung gian (như làm người hòa giải, tham vấn…), là một nhân viên của một hệ thống pháp lý nào đấy (như làm người đánh giá các vấn đề pháp lý của một tổ chức nào đấy hay tư vấn pháp lý cho công ty hay tổ chức…) hoặc là một người của công chúng có trách nhiệm đặc biệt trong việc tác động tới công lý (như làm người phổ biến, tuyên truyền pháp lý hay đại diện cho nhà nước đưa ra các giải pháp lý trong những trường hợp đặc biệt…). Vì vậy, trước hết, có vai trò là người ảnh hưởng tới sự bình ổn của cộng đồng, và sau đó là tính chất đặc biệt của các hoạt động, đối với nghề luật sư, pháp luật cần thiết phải can thiệp để ấn định những tiêu chuẩn đặc biệt về nghề nghiệp.

Một số khảo sát ở trên về pháp luật của các nước quy định về tiêu chuẩn vào nghề của luật sư có những điểm tương đồng. Các tiêu chuẩn đều hướng tới đòi hỏi người vào nghề luật sư phải đạt đến một độ tuổi nhất định mà thường là độ tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (có thể là 18 hay 21 tuổi tùy theo pháp luật của từng nước quy định), có năng lực về chuyên môn nhất định và có đạo đức tốt. Tuy nhiên, để trở thành luật sư thực sự được hành nghề, những người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn nói trên phải xin và được nhà chức trách có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề. Các tiêu chuẩn phản ánh nội dung cần phải có. Việc được cấp chứng chỉ hành nghề phản ánh hình thức phải đạt được. Các vấn đề này giống như người xin kinh doanh ở những ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Hiện nay việc tổ chức hành nghề Luật sư ở các nước trên thế giới có một vài sự khác biệt. Ở Đức, Luật sư có ba hình thức tổ chức hành nghề chủ yếu: hành nghề độc lập (solo practice); công ty hợp danh (partnership); và liên kết (co-operation). Luật sư hành nghề độc lập có thể chia sẻ văn phòng cùng với hai hoặc ba đồng nghiệp, phân bổ thu nhập từ khách hàng theo sự đóng góp và hoạt động trên căn bản mỗi người tiến hành hoạt động riêng, tự chịu rủi ro và vì lợi ích riêng. Còn liên kết là sự nhóm hợp lại của một số Luật sư hành nghề độc lập trong một tổ chức không rõ ràng về mặt pháp lý trên căn bản mỗi người hoạt động riêng rẽ và tự chịu trách nhiệm về các rủi ro và có các lợi ích riêng. Hình thức này thông thường được các Luật sư có chuyên môn ở các lĩnh vực khác nhau liên kết lại với nhau để có thể chào hàng cho khách hàng trong việc cung cấp các dịch vụ pháp lý trong tất cả các lĩnh vực pháp luật[10].

Ở Đức, theo số liệu thống kê đến năm 2008, hầu hết các luật sư (khoảng 88%) hành nghề trong các văn phòng Luật sư nhỏ có dưới 09 nhân viên; 9,1% làm việc trong các công ty luật cỡ trung bình có từ 10 đến 19 nhân viên và chỉ khoảng 2,9% luật sư làm việc trong các công ty luật lớn có từ 20 nhân viên trở lên[11]. Các thông tin này cho thấy phân loại các tổ chức hành nghề luật theo quy mô hay kích cỡ không mấy phụ thuộc vào doanh thu mà thường dựa vào số lượng Luật sư hành nghề tại tổ chức đó.

Việc hiểu sâu sắc và đầy đủ các đặc điểm của nghề luật sư có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Luật sư từ quy chế vào nghề, tổ chức hành nghề, quản lý Luật sư và sau khi chấm dứt hành nghề Luật sư.

Nguồn: lsvn.vn

27 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in
Tuân thủ pháp luật, yếu tố sống còn của tổ chức tín dụng
Các nhà băng luôn được bao phủ bởi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ‘trói chặt’ gấp nhiều lần các lĩnh vực khác, bởi hoạt động gắn liền với ‘rất nhiều tiền’, đi kèm đó là trách nhiệm nặng nề về dân sự, hình sự…
Bởi vậy, mối quan tâm chung lớn nhất của các lãnh đạo trong toàn hệ thống ngân hàng là tuân thủ các quy định pháp luật.

Sửa điều lệ đảm bảo tuân thủ quy định

Trao đổi với Ðầu tư Chứng khoán về lý do lùi thời gian tổ chức Ðại hội đồng cổ đông (ÐHCÐ) năm 2019 đã công bố là ngày 28/3/2019 sang thời gian mới là ngày 24/4/2019, một lãnh đạo cấp cao LienVietPostBank cho biết, Ngân hàng đang hoàn thiện việc chỉnh sửa Ðiều lệ nhằm đảm bảo tuân thủ Thông tư 13/2018/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

“Bộ phận pháp chế đang rà soát lại để sửa những điểm chưa phù hợp”, vị lãnh đạo LienVietPostBank chia sẻ.

Về vấn đề này, một lãnh đạo cao cấp NHNN cho biết: “Về nguyên tắc, các ngân hàng phải thực hiện theo Thông tư từ ngày 1/1/2019. Nếu phát hiện ra điều lệ không phù hợp sẽ phải sửa. Nhưng sửa điều lệ là thẩm quyền của ÐHCÐ nên phải đưa ra trình trước đại hội”.

Nội dung của Thông tư 13/2018/TT-NHNN quy định rất nhiều lĩnh vực như kiểm soát nội bộ, tuân thủ, quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ… với hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2019; đánh giá mức độ đủ vốn có hiệu lực từ ngày 1/1/2021. Thị trường chung nhận định, tác động của những quy định này sẽ làm thay đổi, định hình, điều chỉnh hoạt động kinh doanh của không ít ngân hàng trong thời gian tới.

Ví dụ khái niệm “HÐQT điều hành” có thể còn tồn tại nhưng mức độ ảnh hưởng sẽ giảm đi rất nhiều và dần nhường chỗ cho khuôn khổ quản trị theo chuẩn mực quốc tế. HÐQT tập trung thực hiện đúng vai trò quản trị và chức năng giám sát cần thiết của mình, trong khi Ban điều hành thực hiện công việc hàng ngày dưới sự giám sát của HÐQT và các ủy ban giúp việc. Mức độ trưởng thành của hệ thống quản trị cũng sẽ được nâng cao hơn.

Thông tư 13 cũng đề cập đến các nguyên tắc quản lý rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt. Mặc dù quản lý rủi ro tín dụng vẫn là cấu phần cơ bản và lớn nhất của các ngân hàng, những vấn đề liên quan đến quản lý rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động sẽ được chú trọng nhiều hơn trong tương lai. Do đó, xu hướng đổi mới và nâng cấp hệ thống quản lý tài sản có, tài sản nợ cũng như kiện toàn các công cụ quản trị rủi ro hoạt động là những nội dung các nhà băng buộc phải đẩy mạnh trong thời gian tới.

Thực tế, việc tuân thủ các quy định pháp luật luôn được các tổ chức tín dụng đề cao và nghiêm túc thực hiện, bởi đó là một đòi hỏi quan trọng “sống còn” hàng đầu đối với mỗi cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng. Ðặc biệt, theo Thông tư số 52/2018/TT-NHNN của NHNN ban hành ngày 31/12/2018 quy định xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, kể từ ngày 1/4/2019, việc xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ có hiệu lực.

“Nội dung Thông tư 52 ghi rõ, việc xếp hạng sẽ đảm bảo phản ánh đầy đủ thực trạng hoạt động, rủi ro của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và việc tuân thủ đúng quy định của pháp luật được đánh giá cao”, vị lãnh đạo cao cấp của NHNN nói trên cho biết.

Năm 2018, NHNN ban hành 54 văn bản quy phạm pháp luật

Không chỉ các tổ chức tín dụng, mà chính cơ quan quản lý nhà nước cũng đang nỗ lực tạo hành lang pháp lý vững chắc để các tổ chức tín dụng dễ dàng hơn trong việc tuân thủ quy định pháp luật.

Ông Võ Tấn Long, Phó tổng giám đốc Dịch vụ tư vấn công nghệ thông tin, Công ty Tư vấn PwC Việt Nam chia sẻ, thực tế các cơ quan quản lý, đặc biệt là NHNN đang rất chú trọng tới sự phát triển của các công ty FinTech. Theo đó, NHNN đã thành lập một ủy ban hỗ trợ các công ty FinTech với sự tham gia của nhiều lãnh đạo cao cấp trong ngành. Bản thân NHNN nhận thấy rằng, FinTech là một trong những động lực lớn để mở rộng và phổ cập dịch vụ tài chính tại Việt Nam. Vì vậy, cơ quan này rất tích cực trong việc tìm hướng đi để các công ty FinTech có thể phát triển hơn.

“Cụ thể, hiện nay, NHNN đang xây dựng dự thảo cho quy định về ngân hàng đại lý (agent banking) và định danh khách hàng qua các phương tiện điện tử (e-KYC). Hai quy định này nếu được thông qua sẽ mở ra một sân chơi mới cho các công ty FinTech tham gia trực tiếp cung cấp các dịch vụ tài chính cho đông đảo người dân ở Việt Nam”, ông Long nói.

Cũng theo ông Long, bảo mật và an toàn tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các công ty FinTech. Vì vậy, NHNN đang có nhiều nỗ lực trong việc nới dần những chính sách liên quan tới quản lý về an toàn, an ninh thông tin. Qua đó, có sự cân đối giữa việc mở cửa, hỗ trợ các FinTech phát triển, đồng thời kiểm soát những thông tin tài chính trên không gian mạng và không gian số. Các công ty FinTech được yêu cầu có sự hợp tác nhất định với ngân hàng trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tài chính, hỗ trợ việc nâng cao an toàn, bảo mật thông tin cho khách hàng.

Trong khi đó, ngân hàng, với tư cách là một doanh nghiệp, có đầy đủ các quyền tự chủ kinh doanh đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Luật Doanh nghiệp, Luật Ðầu tư năm 2014 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, các nhà băng còn được bao phủ bởi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật “trói chặt” gấp nhiều lần các lĩnh vực khác, bởi hoạt động luôn gắn liền với “rất nhiều tiền”, đi kèm đó là trách nhiệm nặng nề về dân sự, hành chính và hình sự.

“Mua bán hàng cấm với giá trị lên tới hàng trăm triệu đồng chỉ bị phạt đến 100 triệu đồng theo quy định tại Nghị định số 185/2013/NÐ-CP. Nhưng chỉ cần mua bán vài USD hay vài chỉ vàng miếng đã có thể bị xử phạt 250 triệu đồng theo quy định tại Nghị định số 94/2015/NÐ-CP”, Luật sư Trương Thanh Ðức, Chủ tịch Công ty Luật BASICO nói.

Cũng theo ông Ðức, ngoài việc phải nắm chắc hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động, ngân hàng còn phải nắm bắt và chấp hành (hay ít nhất cũng đòi hỏi khách hàng phải tuân thủ) hàng nghìn văn bản thuộc mọi lĩnh vực khác nhau, từ chăn nuôi, trồng trọt, thực phẩm, thương mại, cho đến xây dựng, công nghệ, y tế, giáo dục, môi trường…

“Trách nhiệm tuân thủ hệ thống pháp luật liên quan gián tiếp đến ngân hàng, trước tiên là của khách hàng, nhưng nếu ngân hàng bỏ ngỏ, thì rủi ro pháp lý có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và nguy cơ nợ xấu, mất lãi, mất vốn vay là rất lớn. Ðặc biệt, thực tế nhiều năm qua, cứ xảy ra mất tiền tỷ là kiểu gì cán bộ ngân hàng cũng có nguy cơ trở thành tội phạm”, ông Ðức chia sẻ.

Ðược biết, tính từ năm 2011 đến nay, năm 2014 là năm văn bản quy phạm pháp luật được NHNN ban hành nhiều nhất với 61 văn bản và tiếp theo là năm 2018 vừa qua, khi cơ quan này ban hành 54 văn bản quy phạm pháp luật.

Nguồn: antt.vn

27 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in
TƯ VẤN PHÁP LÝ THƯỜNG XUYÊN CHO DOANH NGHIỆP LÀ GÌ ?

Trong quá trình hoạt động, Doanh nghiệp sẽ luôn gặp phải các vướng mắc pháp lý mà đội ngũ nhân sự của Doanh nghiệp không đủ khả năng để giải quyết bởi đây là vấn đề mới, vấn đề phức tạp, vấn đề cần được giải quyết bởi nhân sự có chuyên môn, kinh nghiệm … hoặc đơn giản bởi Công ty không có đội ngũ pháp chế. Trên cơ sở đó, chúng tôi thiết lập và cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên cho Doanh nghiệp để đảm bảo Doanh nghiệp luôn được giải quyết các vướng mắc một cách kịp thời, đảm bảo hiệu quả và tránh rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

TƯ VẤN PHÁP LÝ THƯỜNG XUYÊN CHO DOANH NGHIỆP LÀ GÌ ?

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho Doanh nghiệp là một phương thức cung cấp dịch vụ pháp lý của Luật sư để giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh thường xuyên hoặc đột xuất trong quá trình hoạt động của Doanh nghiệp.

Khi sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên, Khách hàng có thể liên hệ với Luật sư bất kỳ khi nào theo các phương thức thỏa thuận để đưa ra các yêu cầu tư vấn hoặc những các đề nghị phối hợp giải quyết vụ việc.

Việc sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên giúp Doanh nghiệp giải quyết nhanh chóng, chính xác các vấn đề / vụ việc pháp lý gặp phải trong quá trình hoạt động.

TẠI SAO NÊN SỬ DỤNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LÝ THƯỜNG XUYÊN

Khi Doanh nghiệp của bạn không có phòng, ban pháp chế hoặc đội ngũ nhân sự phụ trách về pháp chế không có khả năng chuyên môn, kinh nghiệm để giải quyết tất cả các vấn đề pháp lý xoay quanh hoạt động của Doanh nghiệp, thì bạn nên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên. Bởi:

1. Về tính kinh tế:

  • Chỉ phải chi trả cho một Luật sư mà vẫn nhận được khối lượng kiến thức tư vấn chuyên môn của toàn bộ đội ngũ Luật sư và chuyên gia giàu kinh nghiệm đa dạng trên các lĩnh vực;
  • Sử dụng dịch vụ Luật sư nội bộ sẽ tiết kiệm hơn đến 70% chi phí cho một Luật sư toàn thời gian làm việc tại doanh nghiệp với khối lượng công việc tương đương hoặc Luật sư theo vụ việc phát sinh;
  • Tiết kiệm được chi phí quản lý nhân sự và các phúc lợi liên quan đến một nhân sự toàn thời gian tại doanh nghiệp như bảo hiểm xã hội, công đoàn, tiền thưởng, trang phục, chi phí quản lý,…
  • Lợi ích và chi phí mà doanh nghiệp tiết kiệm được khi đã kiểm soát tốt các rủi ro pháp lý là vô cùng to lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững cũng như hình ảnh của doanh nghiệp trước các đối tác, khách hàng.

2. Về tính kịp thời:

Khi sử dụng dịch vụ, một hoặc nhiều Luật sư sẽ được cử đến làm việc thường xuyên với doanh nghiêp, nắm bắt được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nên khi có các vấn đề phát sinh sẽ được giải quyết kịp thời, tiết kiệm thời gian hơn so với Luật sư vụ việc phải tìm hiểu từ đầu về tình hình của doanh nghiệp.

3. Về tính hiệu quả:

Đồng thời, Luật sư tư vấn thường xuyên với sự thấu hiểu về tình hình hoạt động của doanh nghiệp sẽ đưa ra phương án giải quyết được các rắc rối tiềm ẩn trước khi phát sinh thiệt hại cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, còn rất nhiều lợi ích khác mà chỉ khi sử dụng dịch vụ, Doanh nghiệp mới có thể trải nghiệm đầy đủ.

Nguồn: vinhquanglaw.com

27 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in
Nguồn gốc chiếc búa thẩm phán – biểu tượng của quyền lực

Tiếng búa của thẩm phán tại Mỹ được ví như tiếng súng chỉ thiên của cảnh sát trưởng khi muốn dừng một cuộc ẩu đả.

Búa thẩm phán làm từ gỗ cây phong, thường dùng kèm với một mặt gõ cũng từ chất liệu này. Âm thanh khi búa va chạm với mặt gõ rất to và vang, đảm bảo mọi người trong phòng đều có thể nghe rõ. Hình ảnh của cây búa này thường xuất hiện chủ yếu ở tòa án và nghị viện Mỹ, bên cạnh đó nó còn được sử dụng trong các buổi đấu giá…

Chiếc búa thể hiện người nắm giữ nó có quyền uy của người cầm trịch – ví dụ như chủ tịch phiên họp hoặc thẩm phán phiên tòa. Người ta sử dụng búa này để kêu gọi sự tập trung của người khác mà không phải lớn tiếng nhắc nhở.

Ngoài ra, việc gõ búa cũng để báo hiệu đạo luật đã được thông qua, hoặc phán quyết có tính chất chung cuộc. Vì là biểu tượng của quyền lực, chiếc búa còn được sử dụng trong những buổi lễ chuyển giao chức vị. Chẳng hạn trong Thượng viện Mỹ, chủ tịch thượng viện đương nhiệm sẽ cầm chiếc búa với phần cán quay ra ngoài và tiến hành nghi thức trao búa cho người kế nhiệm.

Lịch sử ghi nhận George Washington, tổng thống đầu tiên của Mỹ, từng dùng một chiếc búa tương tự như chiếc búa thẩm phán tại nghi lễ đặt móng xây dựng tòa nhà quốc hội. Hiện nay, khách tới vẫn có thể được chiêm ngưỡng di vật lịch sử này tại tòa nhà Quốc hội.

John Adams, phó tổng thống đầu tiên của Mỹ, cũng dùng một chiếc búa thẩm phán để khai mạc phiên họp mặt Nghị viện đầu tiên được tổ chức vào mùa xuân 1789 ở New York.

Tổng thống Mỹ đầu tiên - Geogre Washington dùng chiếc búa tương tự như chiếc búa thẩm phán tại nghi lễ đặt móng xây dựng tòa nhà quốc hội Hoa Kỳ.

Bạn có thể bắt gặp chiếc búa này trong khắp các phòng xét xử ở Mỹ. Tiếng búa gõ vang dội cùng với câu nói nghiêm nghị của thẩm phán: “Trật tự tại tòa” sẽ mau chóng khôi phục lại không khí nghiêm trang trong phòng xử án khi luật sư, nhân chứng, bồi thẩm đoàn hoặc thậm chí là cả những người tham dự đi lệch khỏi quy chuẩn phép tắc của phiên xét xử. Có người còn ví tiếng búa của thẩm phán như tiếng súng chỉ thiên của cảnh sát trưởng miền Viễn Tây khi muốn dừng một cuộc ẩu đả.

Trước khi có thể làm chủ tọa phiên tòa xét xử, một người thẩm phán sẽ phải trải qua khóa huấn luyện nâng cao chuyên môn, và tại đây, họ thường được dặn dò phải hạn chế sử dụng búa vì nếu lạm dụng sẽ làm giảm uy lực của nó.

Khi không đồng ý với cách phân xử của tòa, đôi khi một luật sư lành nghề sẽ cố tình tiếp tục xét hỏi nhân chứng theo cách đã bị tòa nhắc nhở trước đó để thử phản ứng của thẩm phán xét xử. Với những người này, chủ toạ thoạt đầu sẽ đưa ra cảnh cáo bằng lời nói, sau đó sẽ là tiếng búa. Âm thanh của chiếc búa sẽ là lời cảnh cáo nghiêm khắc rằng “Nếu anh không dừng ngay hành động của mình, tòa sẽ đáp lại bằng hình phạt tương ứng”. Nếu luật sư vẫn ngoan cố, với tiếng búa gõ lần này, thẩm phán có thể sẽ ra quyết định phạt về hành vi “khinh miệt tòa án”.

Theo Quora, chiếc búa quyền lực này có nguồn gốc từ nghề thợ nề. Thời trung cổ, người thợ nề thường sử dụng một chiếc búa làm từ gỗ cứng để gọt bớt đá và đẩy cả viên đá vào đúng vị trí.

Dần dần, dụng cụ này trở thành biểu tượng cho quyền giám sát và hoàn thiện công trình của người cầm nó. Trong những cuộc họp mặt, người trưởng hội nghề thường mang theo một chiếc búa để thể hiện vị trí và quyền lực của mình.

Nguồn: vnexpress.vn

24 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in
LUẬT SƯ TƯ VẤN PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH TRỰC TUYẾN QUA ĐIỆN THOẠI

Luật sư tư vấn pháp luật hành chính uy tín toàn quốc. Luật sư tư vấn luật hành chính, hỗ trợ khiếu nại hành chính, khởi kiện hành chính uy tín. Tư vấn luật hành chính qua điện thoại, tư vấn luật hành chính qua Email, tư vấn luật hành chính trực tiếp tại văn phòng…

Trong quá trình quản lý hành chính Nhà nước, các cán bộ Nhà nước không thể tránh khỏi các sai sót. Điều này dẫn đến hệ quả là các quyết định hành chính được ban hành một cách trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của người dân.

Từ trước đến nay, đa phần bộ phận người dân vẫn cho rằng, khiếu nại Nhà nước, khởi kiện Nhà nước thì chả khác nào “con kiến kiện củ khoai”. Tuy nhiên, đó là quan niệm của ngày trước, khi xã hội Việt Nam còn là xã hội phong kiến, bị đô hộ và pháp luật còn chưa phát triển. Còn bây giờ, với sự phát triển của khoa học pháp lý đã có rất nhiều cơ chế để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. chúng tôi – một công ty Luật hàng đầu Việt Nam luôn sẵn sàng tư vấn – hỗ trợ bạn trong việc thực thi các quyền lợi hợp pháp nói trên!

1. Các trường hợp tư vấn luật hành chính

– Bạn đang cần thực hiện bất cứ một thủ tục hành chính nào trên bất cứ lĩnh vực nào mà không biết phải thực hiện như thế nào?

– Bạn là người đang bị xử phạt hành chính và không biết rằng quyết định xử phạt, thẩm quyền và trình tự xử phạt hành chính đã đúng pháp luật hay chưa?

– Bạn đang là người muốn khiếu nại, muốn khởi kiện hành chính đối với một quyết định hành chính mà chưa biết phải thực hiện bằng cách nào?

– Bạn là người muốn tìm hiểu các quy định về luật hành chính để biết, làm theo và giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với các cơ quan nhà nước…

Nếu bạn thuộc một trong những đối tượng trên thì giải pháp dành cho bạn là sử dụng dịch vụ tư vấn luật hành chính của chúng tôi. Hiện tại chúng tôi đang tư vấn luật hành chính bằng rất nhiều hình thức dịch vụ: Tư vấn luật hành chính qua điện thoại, tư vấn luật hành chính qua Email, tư vấn pháp luật hành chính trực tiếp tại văn phòng hoặc tại địa chỉ khách hàng yêu cầu!

Dịch vụ Luật sư tư vấn huyện Thường Tín

2. Các vấn đề được tư vấn luật hành chính

– Tư vấn tất cả các vấn đề về pháp luật hành chính: Tư vấn các quy định của luật hành chính, xử phạt hành chính, khiếu nại hành chính, khởi kiện hành chính, các thủ tục hành chính…

– Các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Đối tượng xử phạt, hình thức xử phạt, thẩm quyền xử phạt, trình tự thủ tục xử phạt, thời hạn xử phạt….

– Các quy định của pháp luật về các mức xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể.

– Tư vấn thủ tục, hồ sơ, cách thức thực hiện khiếu nại hành chính, khởi kiện hành chính

– Đại diện thực hiện thay khách hàng các thủ tục hành chính trên thực tế

Chúng tôi thực hiện tư vấn bao gồm nhưng không giới hạn toàn bộ các vấn đề nêu trên và các vấn đề thuộc luật hành chính nói chung.

3. Tư vấn pháp luật hành chính qua điện thoại

Dù đối tượng vi phạm pháp luật là Nhà nước, là cán bộ Nhà nước thì cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chính vì thế, hãy cứ dũng cảm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo đúng quy định của pháp luật.

Nguồn: phapluathcm.vn

24 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in
Tại sao Doanh nghiệp cần phải có Luật sư tư vấn pháp luật thường xuyên?

Tranh chấp, các vấn đề phát sinh, rắc rối pháp lý của Doanh nghiệp hiện nay diễn ra rất phổ biến, thường xuyên. Nhiều khi các doanh nghiệp có những thắc mắc về vấn đề pháp lý, hoạt động của mình mà không biết hỏi ai. Nếu lên mạng tự tìm kiếm thì có quá nhiều thông tin, cách tư vấn khiến cho Doanh nghiệp càng rơi vào bế tắc, không hiểu.

Nếu thuê Luật sư chỉ để hỏi 1 vài câu thì chi phí cho các lần như thế là rất tốn kém, mà thắc mắc pháp lý lại thường xuyên xảy ra. Nếu để phát sinh tranh chấp hoặc xử lý sự cố thường sẽ rất tốn kém mà “Phòng còn hơn chống” là tâm lý chung của Doanh nghiệp. Trong khi đó, để thuê 1 bộ phận pháp chế thường sẽ rất tốn kém, cồng kềnh mà có rất nhiều bất tiện do hạn chế của phòng pháp chế mà nhiều khi vẫn phải thuê Luật sư ở ngoài để giải quyết.

Để khắc phục những nhược điểm như trên, yp.vn sẽ cung cấp thông tin tham khảo cho Doanh nghiệp.

Bảng Báo Giá Dịch Vụ Luật Sư Tư Vấn

+ Cập nhật các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động của Quý doanh nghiệp;

+ Tư vấn và giải đáp các câu hỏi, thắc mắc của doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động của Quý khách hàng;

+ Tư vấn, đề xuất hiệu chỉnh, khuyến nghị hoặc đưa ra ý kiến pháp lý khác đối với các thỏa thuận, hợp đồng, các tài liệu, giấy tờ mà Quý khách hàng sẽ ký kết ở Việt Nam nhằm đảm bảo tính hợp pháp theo các quy định của pháp luật Việt Nam;

+ Tư vấn, soạn thảo nội quy, quy chế hoạt động của Công ty và đăng ký nội quy lao động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

+ Đại diện, cùng tham gia giải quyết các tranh chấp, vướng mắc nội bộ, hoặc các tranh chấp hợp đồng.

+ Tư vấn các thủ tục hành chính, soạn hồ sơ hoặc liên hệ các đơn vị thực hiện để nộp hồ sơ, nhận kết quả và thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến các thủ tục thay đổi, thành lập công ty, chi nhánh, văn phòng giao dịch, địa điểm kinh doanh;

+ Các thủ tục xin các loại giấy phép con (công bố, đăng ký …) và các giấy phép đặc biệt do các bộ ban ngành cấp.

+ Tham gia giải quyết tranh chấp của quý khách hàng với các đối tác tại Tòa án hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Nguồn: phapluatvn.com

24 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in
Những vấn đề pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ?

Những vấn đề pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ?

 

Ảnh minh họa

Tư vấn luật xuất nhập khẩu cho những người thiếu kinh nghiệm.

1. Cơ sở pháp lý:

  • Luật Hải quan 2014
  • Nghị định số 187/2013/NĐ-CP
  • Thông tư số 22/2014/TT-BTC
  • Thông tư 128/2013/TT-BTC
  • Thông tư số 172/2010/TT-BTC
  • Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005
  • Luật Thuế giá trị gia tăng 2008
  • Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi 2014
  • Quyết định số 36/2011/QĐ-TTg Về việc ban hành mức thuế nhập khẩu xe ô tô chở người từ 15 chỗ ngồi trở xuống đã qua sử dụng
  • Thông tư số 83/2014/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng theo Danh mục hàng hóa nhập khẩu Việt Nam
  • Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008
  • Thông tư số 06/2011/TT-BYT
  • Thông tư 103/2015/TT-BTC
  • Thông tư 39/2014/TT-BTC Hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
  • Công văn 1332/TCT-NV2 của Tổng cục Thuế về việc thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá uỷ thác XNK

Thứ nhất, điều kiện đối với chủ thể nhập khẩu hàng hóa. Xuất nhập khẩu không phải là ngành nghề kinh doanh nên khi đăng ký kinh doanh doanh nghiệp không phải đăng ký ngành nghề cụ thể. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành mới được hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP có quy định các đối tượng có quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu đó là:

– Đối với thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (dưới đây gọi tắt là thương nhân):

+ Trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu quy định tại Nghị định này và các văn bản pháp luật khác, thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh.

+ Chi nhánh thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo ủy quyền của thương nhân.

– Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam:

Các thương nhân, công ty, chi nhánh khi tiến hành hoạt động thương mại, ngoài việc phải tuân theo các quy định của pháp luật quy định về xuất nhập khẩu hàng hóa còn thực hiện theo các quy định khác của pháp luật có liên quan, các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và lộ trình do Bộ Công Thương công bố.

– Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện, khi xuất khẩu, nhập khẩu, ngoài việc thực hiện quy định của pháp luật về xuất nhập khẩu, thương nhân phải thực hiện quy định của pháp luật về điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đó.

Như vậy, xuất nhập khẩu không phải là ngành nghề kinh doanh nên khi đăng ký kinh doanh doanh nghiệp không phải đăng ký ngành nghề kinh doanh xuất nhập khẩu cụ thể. Khi doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì Doanh nghiệp chỉ kê khai đăng ký thông tin đăng ký thuế là có hoạt động “Xuất nhập khẩu”. Thông tin về việc doanh nghiệp có đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu hay không được thể hiện tại mạng đăng ký kinh doanh quốc gia.v.v… đồng thời được liên thông với nhiều cơ quan như cơ quan Thuế, Hải quan… Tuy hoạt động nhập khẩu là quyền của doanh nghiệp được ghi nhận theo pháp luật doanh nghiệp nhưng khi thực hiện hoạt động này thì doanh nghiệp cần phải đảm bảo các hoạt động pháp lý liên quan như thủ tục với cơ quan hải quan, cơ quan thuế…

Thứ nhất, điều kiện đối với chủ thể nhập khẩu hàng hóa. Xuất nhập khẩu không phải là ngành nghề kinh doanh nên khi đăng ký kinh doanh doanh nghiệp không phải đăng ký ngành nghề cụ thể. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành mới được hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP có quy định các đối tượng có quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu đó là:

– Đối với thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (dưới đây gọi tắt là thương nhân):

+ Trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu quy định tại Nghị định này và các văn bản pháp luật khác, thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh.

+ Chi nhánh thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo ủy quyền của thương nhân.

– Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam:

Các thương nhân, công ty, chi nhánh khi tiến hành hoạt động thương mại, ngoài việc phải tuân theo các quy định của pháp luật quy định về xuất nhập khẩu hàng hóa còn thực hiện theo các quy định khác của pháp luật có liên quan, các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và lộ trình do Bộ Công Thương công bố.

– Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện, khi xuất khẩu, nhập khẩu, ngoài việc thực hiện quy định của pháp luật về xuất nhập khẩu, thương nhân phải thực hiện quy định của pháp luật về điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đó.

Như vậy, xuất nhập khẩu không phải là ngành nghề kinh doanh nên khi đăng ký kinh doanh doanh nghiệp không phải đăng ký ngành nghề kinh doanh xuất nhập khẩu cụ thể. Khi doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì Doanh nghiệp chỉ kê khai đăng ký thông tin đăng ký thuế là có hoạt động “Xuất nhập khẩu”. Thông tin về việc doanh nghiệp có đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu hay không được thể hiện tại mạng đăng ký kinh doanh quốc gia.v.v… đồng thời được liên thông với nhiều cơ quan như cơ quan Thuế, Hải quan… Tuy hoạt động nhập khẩu là quyền của doanh nghiệp được ghi nhận theo pháp luật doanh nghiệp nhưng khi thực hiện hoạt động này thì doanh nghiệp cần phải đảm bảo các hoạt động pháp lý liên quan như thủ tục với cơ quan hải quan, cơ quan thuế…

Thứ hai, điều kiện với hàng hóa nhập khẩu mà doanh nghiệp cần lưu ý đó là:

– Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân muốn xuất khẩu, nhập khẩu phải có giấy phép của Bộ, ngành liên quan;

Hàng hóa muốn tiến hành thủ tục nhập khẩu hàng hóa tất nhiên cần đáp ứng những điều kiện cụ thể liên quan đến loại hàng hóa mà doanh nghiệp sẽ tiến hành nhập khẩu. Ví dụ đối với hàng hóa nhập khẩu là thực phẩm thì cần đáp ứng những yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, cần có sự cấp phép của Cục vệ sinh an toàn thực phẩm; hàng hóa nhập khẩu là sản phẩm y tế thì cần sự kiểm định của Bộ Y tế;… Như vậy, với mỗi loại hàng hóa cụ thể nếu pháp luật quy định cần cung cấp giấy phép thì doanh nghiệp cần tiến hành những thủ tục theo quy định.

– Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải bảo đảm các quy định liên quan về kiểm dịch, an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, phải chịu sự kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền trước khi thông quan;

Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định cụ thể điều kiện bảo đảm chất lượng hàng hóa nhập khẩu đó là:

+ Hàng hóa nhập khẩu phải được công bố tiêu chuẩn áp dụng theo quy định của pháp luật (về bao bì hàng hóa; nhãn hàng hóa; tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa) và ghi nhãn theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa;

+ Hàng hóa nhập khẩu thuộc nhóm 2 phải được công bố hợp quy, chứng nhận hợp quy theo quy chuẩn kỹ thuật tương ứng liên quan đến quá trình sản xuất, sản phẩm cuối cùng bởi tổ chức chứng nhận được chỉ định hoặc được thừa nhận theo quy định: Việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp giữa tổ chức, cá nhân tại Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài, vùng lãnh thổ do các bên tự thoả thuận; Việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp phục vụ quản lý nhà nước được thực hiện theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc thoả thuận quốc tế mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết;

+ Hàng hóa nhập khẩu thuộc nhóm 2 không đáp ứng quy định nêu trên thì khi nhập khẩu phải được tổ chức giám định được chỉ định hoặc được thừa nhận theo quy định trên;

+ Hàng hóa nhập khẩu thuộc nhóm 2 phải được kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu theo nội dung quy định: Kiểm tra kết quả đánh giá sự phù hợp, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa cần kiểm tra; Thử nghiệm mẫu theo tiêu chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng khi cần thiết.

– Hàng hóa không thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu và các hàng hóa không thuộc trường hợp nêu trên, chỉ phải làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu.

Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu được quy định tại Phụ lục đính kèm Nghị định 187/2013/NĐ-CP. Đương nhiên, đối với những hàng hóa thuộc danh mục không được nhập khẩu thì doanh nghiệp không tiến hành hoạt động nhập khẩu hàng hóa.

Sau khi xác định được hàng hóa mà bạn có nhu cầu nhập khẩu từ nước ngoài về Việt Nam đáp ứng các yêu cầu trên, tiến hành thực hiện thủ tục hải quan theo các nội dung sau:

Trình tự thực hiện:

Chủ hàng hoặc người khai hải quan phải khai báo, nộp và xuất trình hồ sơ hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và xuất trình hàng hóa với hải quan cửa khẩu để làm thủ tục và được giải quyết thông quan với cơ quan Hải quan cửa khẩu theo các bước sau:

Bước 1: Chủ hàng hoặc người khai hải quan phải khai báo tờ khai hải quan nộp và xuất trình hồ sơ lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu với hải quan cửa khẩu đồng thời xuất trình hàng hóa để Hai quan cửa khẩu kiển tra, giám sát, đối chiếu với khai báo của chủ hàng trên tờ khai hải quan và hồ sơ kèm theo (nếu có) theo quy định về thủ tục hải quan cụ thể đối với từng loại hình hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập-tái xuất, tạm xuất-tái nhập, quá cảnh qua biên giới theo quy định.

Bước 2: Cơ quan Hải quan tiếp nhận hồ sơ do chủ hàng hoặc người khai hải quan nộp và xuất trình và thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để kiểm tra, giám sát đối chiếu xác định sự phù hợp giữa thực tế hàng hóa với khai báo của chủ hàng trên tờ khai hải quan và hồ sơ kèm theo để giải quyết các chế độ thuế, lệ phí (nếu có), xử lý vi phạm (nếu có) và quyết định thông quan qua biên giới theo trình tự thủ tục hải quan đã được quy định đối với từng loại hình hàng hóa xuất, nhập cụ thể theo quy định.

Cách thức thực hiện: Trực tiếp tại trụ sở Chi cục Hải quan cửa khẩu.

Thành phần, số lượng hồ sơ (đối với hàng nhập khẩu) – gồm 01 bộ:

– Tờ khai hải quan: Sử dụng tờ khai hàng hóa nhập khẩu theo Tờ khai Hải quan do Bộ Tài chính quy định.

– Các chứng từ khác về hồ sơ hải quan, quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán do Bộ Tài chính quy định, trừ vận đơn và hợp đồng thương mại.

– Phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch y tế do cơ quan kiểm dịch y tế cấp (đối với hàng hoá thuộc đối tượng kiểm dịch y tế); và Giấy đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá đối với hàng hoá thuộc diện phải kiểm tra.

– Hàng hoá nhập khẩu qua biên giới được hưởng các ưu đãi về thuế nhập khẩu nếu có đủ điều kiện theo thoả thuận song phương giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước có chung biên giới; việc khai báo hải quan, nộp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) đối với hàng hóa được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu, thực hiện theo Thông tư số 128/2013/TT-BTC ngày 10/9/2013 của Bộ Tài chính Quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và Thông tư số 45/2007/TT-BTC ngày 07 tháng 5 năm 2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt. Đối với trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt thì đối tượng nhập khẩu phải xuất trình Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá-C/O (trừ trường hợp tổng trị giá lô hàng (FOB) không vượt quá 200 USD).

– Kiểm tra thực tế hàng hoá thực hiện theo quy định của pháp luật Hải quan hiện hành.

– Lưu ý: (Theo quy định tại khoản 2 Điều 24 và khoản 1,2 Điều 29 Luật Hải Quan 2014)

+ Chứng từ thuộc hồ sơ hải quan là chứng từ giấy hoặc chứng từ điện tử. Chứng từ điện tử phải bảo đảm tính toàn vẹn và khuôn dạng theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

+ Người khai hải quan phải khai đầy đủ, chính xác, rõ ràng các tiêu chí thông tin tờ khai hải quan.

+ Khai hải quan được thực hiện theo phương thức điện tử, trừ trường hợp người khai hải quan được khai trên tờ khai hải quan giấy theo quy định của Chính phủ.

Thời hạn giải quyết: Trong 08 giờ hành chính/ngày; nếu hết giờ hành chính mà lô hàng chưa kiểm tra xong thì được tiếp tục làm ngoài giờ hành chính cho xong.

Đối với việc làm thủ tục hải quan điện tử để nhập khẩu hàng hóa theo Thông tư số 22/2014/TT-BTC, yêu cầu:

Hồ sơ hải quan điện tử:​

1. Hồ sơ hải quan bao gồm:

a) Tờ khai hải quan (dạng điện tử).

Trong trường hợp phải xuất trình, nộp bản giấy theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền, tờ khai hải quan điện tử được in ra giấy theo mẫu Tờ khai hàng hóa xuất khẩu, Tờ khai hàng hóa nhập khẩu theo Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư này.

b) Các chứng từ đi kèm tờ khai (dạng điện tử hoặc văn bản giấy): theo quy định tại Điều 22 Luật Hải quan.

2. Hồ sơ phải nộp cho cơ quan Hải quan đối với trường hợp thuộc diện kiểm tra hồ sơ hoặc kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư số 128/2013/TT-BTC ngày 10 tháng 9 năm 2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Thông tư 128/2013/TT-BTC), riêng tờ khai hải quan được sử dụng dưới dạng điện tử.

– Lưu ý:

+ Trước khi tiến hành khai hải quan, người khai hải quan phải đăng ký với cơ quan Hải quan các thông tin liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo các chỉ tiêu thông tin quy định tại điểm 2 Phụ lục II kèm theo Thông tư này.

+ Thông tin đăng ký trước có giá trị sử dụng và được lưu giữ trên Hệ thống tối đa là 07 ngày kể từ thời điểm đăng ký trước hoặc thời điểm có sửa chữa cuối cùng.

+ Người khai hải quan được tự sửa chữa các thông tin đã đăng ký trước trên Hệ thống và không giới hạn số lần sửa chữa.

Khai hải quan:

1. Sau khi đăng ký trước thông tin hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, người khai hải quan tiếp nhận thông tin phản hồi từ Hệ thống để thực hiện khai hải quan.

Người khai hải quan tự kiểm tra nội dung thông tin phản hồi từ Hệ thống và chịu trách nhiệm trước pháp luật khi sử dụng thông tin phản hồi từ Hệ thống để khai hải quan.

2. Chính sách quản lý xuất khẩu, nhập khẩu và chính sách thuế áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu lực tại thời điểm cơ quan Hải quan chấp nhận đăng ký thông tin khai hải quan của người khai hải quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Nguyên tắc khai hải quan:

a) Một tờ khai hải quan được khai tối đa 50 dòng hàng. Trường hợp một lô hàng có trên 50 dòng hàng, người khai hải quan phải khai báo trên nhiều tờ khai;

b) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo các loại hình khác nhau phải khai trên tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khác nhau theo từng loại hình tương ứng;

c) Một tờ khai hải quan chỉ khai báo cho một hóa đơn;

d) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, giảm thuế so với quy định thì khi khai hải quan phải khai số danh mục miễn thuế; mã miễn, giảm thuế, không chịu thuế và số tiền thuế được giảm;

đ) Người khai hải quan khai tờ khai trị giá và nộp cho cơ quan Hải quan theo quy định tại Quyết định số 30/2008/QĐ-BTC ngày 21 tháng 5 năm 2008 và Thông tư 182/2012/TT-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2012. Riêng trường hợp người khai hải quan xác định hàng hóa đủ điều kiện áp dụng phương pháp trị giá giao dịch, đồng thời đã khai thông tin trị giá trên Tờ khai hàng hóa nhập khẩu và Hệ thống tự động tính trị giá tính thuế thì người khai hải quan không phải khai và nộp tờ khai trị giá.

2/.các loại thuế phải nộp

Đối với các loại hàng hóa khi nhập khẩu từ nước ngoài về Việt Nam thì sẽ phải chịu các loại thuế, phí như sau:

Thứ nhất, Thuế nhập khẩu

Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tải đường bộ hay đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc tế, cảng sông quốc tế hay cảng biển quốc tế, cửa khẩu biên giới bộ) thì các công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo các công thức tính thuế nhập khẩu đã quy định trước.

Thuế nhập khẩu không áp dụng chung cho tất cả các mặt hàng. Mỗi mặt hàng có một mức thuế khác nhau theo quy định của chính phủ nước nhập.

Thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường.

1. Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, đặc biệt: Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam.

2. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác: Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam.

3. Thuế suất nhập khẩu thông thường. Theo điều 1 nghị định quy định chi tiết một số điều Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì đối tượng chịu thuế sẽ là:

Hàng hóa trong các trường hợp sau đây là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, trừ hàng hóa quy định tại Điều 2 Nghị định này:

3.1. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam bao gồm: hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ, đường sông, cảng biển, cảng hàng không, đường sắt liên vận quốc tế, bưu điện quốc tế và địa điểm làm thủ tục hải quan khác được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3.2. Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.

Khu phi thuế quan bao gồm: khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại – công nghiệp và các khu vực kinh tế khác được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.

3.3. Hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Những hàng hóa thuộc đối tượng này sẽ được áp thuế theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quy định của Chính phủ về thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với mức thuế 20%;

Thứ hai, Thuế giá trị gia tăng.

Căn cứ theo Điều 2, Luật Thuế giá trị gia tăng 13/2008/QH12 thì Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.

Và Điều 3 về Đối tượng chịu thuế

Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này.

Thứ ba, Thuế tiêu thụ đặc biệt

Đây là một loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ.

Lưu ý: Đối với từng loại hàng hóa mà mức thuế suất áp dụng là khác nhau.

Thứ tư, Lệ phí làm thủ tục hải quan

Theo quy định tại Điều 1, khoản 1 Điều 3 và Biểu mức thu lệ phí trong lĩnh vực hải quan ban hành kèm theo Thông tư số 172/2010/TT-BTC ngày 02/11/2010 của Bộ Tài chính thì: lệ phí làm thủ tục hải quan (đối với hàng hóa xuất khẩu/ nhập khẩu) là 20.000 đồng/Tờ khai.

Nguồn: luatminhkhue.vn

26 Tháng Mười, 2021 / by / in
Có được chia đất khi bạn không phải là người giữ sổ đỏ ?

Có được chia đất khi bạn không phải là người giữ sổ đỏ ?

 

Hỏi: Nhà tôi có một mảnh đất 3080 mét vuông nhà tôi bố mẹ sinh được 2 anh em, tôi là út bây giờ tôi lấy vợ muốn ra ở riêng, tôi bảo bố tôi cắt đất cho ra ở riêng và bố tôi nhất chí nhưng sổ đỏ anh trai tôi lại cầm và không muốn chia đất cho tôi, tôi muốn hỏi luật sư rằng bây giờ bố tôi không cần sổ đỏ có chia đất cho tôi được không và có làm được sổ đỏ cho tôi được không.

Tư vấn luật đất đai dựa theo căn cứ pháp lý:
– Luật đất đai 2013
– Luật cư trú 2006
– Bộ Luật Dân sự 2015
– Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai

Luật sư tư vấn:
Chúng tôi thấy rằng bạn đang thắc mắc về vấn đề pháp lý liên quan đến tranh chấp về đất đai.
Theo Khoản 1 Điều 25 Luật cư trú năm 2006 sửa đổi bổ xung năm 2013 quy định:

Điều 25. Sổ hộ khẩu cấp cho hộ gia đình
1. Sổ hộ khẩu được cấp cho từng hộ gia đình. Mỗi hộ gia đình cử một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ làm chủ hộ để thực hiện và hướng dẫn các thành viên trong hộ thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Trường hợp không có người từ đủ mười tám tuổi trở lên hoặc có người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được cử một người trong hộ làm chủ hộ.

Những người ở chung một chỗ ở hợp pháp và có quan hệ gia đình là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh, chị, em ruột, cháu ruột thì có thể được cấp chung một sổ hộ khẩu.
Vậy quỹ đất 3080 mét vuông của nhà bạn sẽ có người đứng tên. Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn chưa nói rõ ràng là sổ đỏ của bạn là loại sổ đỏ gì, ghi tên những ai trong gia đình, chủ hộ đứng tên trong sổ đỏ là bố bạn hay anh trai bạn.

TH1: Nếu mảnh đất đứng tên bố bạn
Bạn phải xác định rằng sổ đỏ (hay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) chỉ là căn cứ để xác nhận quyền sử dụng đất của cá nhân, tổ chức; người đứng tên trên sổ đỏ có quyền sở hữu bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản, không phải là tiền, cũng như không phải là giấy tờ có giá, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng Quyền sử dụng đất. (căn cứ tại Điều 105 và 115 Bộ Luật dân sự 2015)

Do đó, hành vi chiếm giữ sổ đỏ của người khác không đủ yếu tố để cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự. Trường hợp chiếm giữ không chịu trả thì bạn có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận với lý do bị mất theo quy định tại Điều 77 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, cụ thể:

Điều 77: Cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng do bị mất
1. Hộ gia đình và cá nhân, cộng đồng dân cư phải khai báo với UBND cấp xã nơi có đất về việc bị mất GCN, UBND cấp xã có trách nhiệm niêm yết thông báo mất GCN tại trụ sở UBND cấp xã, trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn.
2.Sau 30 ngày, kể từ ngày niêm yết thông báo mất GCN tại trụ sở UBND cấp xã đối với trường hợp của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoặc kể từ ngày đăng tin lần đầu trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương đối với trường hợp của tổ chức trong nước, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người bị mất GCN nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại GCN.
3.Văn phòng ĐKĐĐ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp chưa có bản đồ địa chính và chưa trích đo địa chính thửa đất; lập hồ sơ trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 37 của Nghị định này ký quyết định hủy GCN bị mất, đồng thời ký cấp lại GCN quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

Nếu đây là đất đứng tên bố bạn thì anh bạn không thể cố chấp giữ tài sản không phải của mình được, trong trường hợp này thì nếu thỏa thuận với anh của bạn để lấy lại giấy tờ đất không được thì bạn có thể tới sở tài nguyên môi trường tỉnh để làm đơn đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định trên.
Sau khi đòi lại được sổ đỏ, bố bạn có thể chia đất cho bạn bình thường theo thủ tục tách thửa theo khoản 2 Điều 64 Nghị định 43/2014/NĐ-CP:

Điều 64. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc người có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư.
TH2: Nếu giấy tờ đứng tên chủ hộ là anh bạn thì anh bạn hoàn toàn có toàn quyền với tài sản, ở đây là mảnh đất. Căn cứ theo điều 168 Luật Đất đai:

Điều 168 Thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất
Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận. Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng đất được thực hiện quyền sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất; trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Trong trường hợp này, anh bạn có toàn quyền với việc sử dụng mảnh đất này, bạn hay bố bạn không có quyền quyết định phân chia, chuyển nhượng gì với mảnh đất này
Nguồn: luatvietphong.com

26 Tháng Mười, 2021 / by / in
Giải quyết tranh chấp đất đai hợp pháp cần những thủ tục gì

Giải quyết tranh chấp đất đai hợp pháp cần những thủ tục gì

 

  1. Hiện nay đất ngày càng nên giá dẫn đến tranh chấp đất đai ngày càng tăng, tranh chấp giữa các hộ dân với hộ dân, hộ dân với tổ chức, cơ sở tôn giáo với nhà nước. Giải quyết tranh chấp đất đai cần thuê luật sư tư vấn luật đất đai có chuyên môn và kinh nghiệm tốt để đảm quyền lợi và lợi phía về mình.

Giải quyết tranh chấp đất đai bằng pháp luật
nh: dantri.com.vn

Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến tại Việt Nam

– Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính

– Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất

– Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn

– Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất

– Tranh chấp giữa những người sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa các vùng đất được phép sử dụng và quản lý

– Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác với nhân dân địa phương

– Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất

– Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất

– Tranh chấp về giải toả mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa…

Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính

Trình tự hành chính này sẽ được áp dụng đối với những tranh chấp mà các đương sự không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định và lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND.

Tranh chấp đất đai xảy ra giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến chủ thể có thẩm quyền giải quyết là Chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh.

Đối với tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Nếu một trong các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu này thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để yêu cầu giải quyết.

Ngoài ra, Luật cũng có quy định nếu đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp thì vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.

Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự

1. Về hòa giải: Căn cứ Điều 202 Luật Đất đai năm 2013

Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình. Nhà nước khuyến khích các bên tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ở cơ sở, tuy nhiên đối với tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất thì việc đã trải qua thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã là điều kiện bắt buộc để Tòa án thụ lý giải quyết.

2. Về yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai theo trình tự thủ tục sơ thẩm tại Tòa án

Căn cứ Điều 35, 37, 39 BLTT dân sự năm 2015 thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân nơi có đất đang tranh chấp; nếu tranh chấp không có yếu tố nước ngoài thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, nếu tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Hồ sơ tài liệu cung cấp cho Tòa án khi yêu cầu giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự

– Đơn khởi kiện.

– Tài liệu chứng cứ liên quan đến quyền sử dụng đất và tranh chấp phát sinh

– Chứng minh thư nhân dân/Thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu của bên khởi kiện, văn bản xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về nơi thường trú (tạm trú) của người bị kiện.

Nguồn: Luattriminh

26 Tháng Mười, 2021 / by / in
Những thông tin bạn cần biết về tư vấn luật đất đai

Những thông tin bạn cần biết về tư vấn luật đất đai

 

Đất đai ngày càng trở nên quý giá vì đất đai có hạn mà sự phát triển của loài người qua mỗi năm, mỗi thế kỷ là rất lớn. Và có rất nhiều người dân hiện nay vẫn chưa nắm được các thông tin về luật đất đai, về quyền sở hữu, sử dụng đất đai dẫn đến có những tranh chấp không đáng có. Ngay sau đây hãy cùng điểm qua những thông tin liên quan cần biết và tư vấn luật đất đai.

Những trang thông tin, những cách để tìm hiểu về luật đất đai

Với công nghệ phát triển, ngày nay có vô vàn các trang thông tin, các kênh và các web để cho bạn có thể tìm kiếm thông tin về luật đất đai cũng như các tư vấn luật đất đai. Tuy nhiên cần lưu ý chọn lọc các thông tin chính xác và chuẩn nhất.

Đầu tiên phải kể đến đó là các văn phòng tư vấn luật đất đai. Đây là nơi tìm hiểu thông tin trực tiếp, cụ thể và tin cậy nhất. Bởi vì bạn sẽ được gặp trực tiếp là các luật sư đất đai và được trao đổi cũng như tư vấn toàn diện nhất những gì mà bạn muốn biết.

Thứ hai kể đến chính là tổng đài tư vấn luật đất đai. Thật dễ dàng để cho bạn có thể tìm kiếm được một số tổng đài uy tín và liên hệ với họ qua các đường dây nóng. Qua đó bạn cũng sẽ được các luật sư tư vấn, giải đáp. Tuy nhiên với cách tìm hiểu này bạn cũng nên chú ý lựa chọn số tổng đài của công ty luật uy tín nhằm đảm bảo nguồn thông tin chính xác nhất.

Sự phát triển của internet ngày càng mạnh mẽ và ngày càng có nhiều hơn là sự tư vấn luật đất đai online miễn phí. Theo cách này bạn sẽ để lại thông tin cần tư vấn bằng tài khoản email, tài khoản google, tài khoản facebook để được các luật sư chat tư vấn lại. Ưu điểm của nó là được tư vấn luật đất đai miễn phí đồng thời thuận tiện. Nhưng cũng có một nhược điểm lớn đó là đôi khi tư vấn thiếu chuyên nghiệp, không tin cậy dẫn đến có những hiểu biết sai về luật đất đai.

Hơn hết là hiện nay đa số các công ty luật đều có số điện thoại tư vấn luật đất đai trên các trang riêng của mình. Chính vì vậy bạn có rất nhiều cách để được tư vấn và nắm rõ về luật đất đai để có những cư xử đúng chuẩn mực.

Những điều cần chủ động tìm hiểu và hỏi khi nhờ tư vấn luật đất đai

Luật đất đai có rất nhiều vấn đề liên quan vì vậy nếu không phải ngành nghề để tìm hiểu hết là không thể. Chính vì thế mà khi có sự tư vấn luật đất đai bạn nên chủ động và hỏi han về các vấn đề chính nhất, cơ bản nhất.

Những điều cần biết cơ bản nhất về luật đất đai đó là:

  1. Các quyền và trách nhiệm của nhà nước với đất đai được quy định trong luật
  2. Các quyền và trách nhiệm của người sử dụng đất
  3. Các vấn đề liên quan đến sở hữu, sử dụng, quyền lợi liên quan đến đất đai như:

– Các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

– Thời hạn sử dụng đất của gia đình, cá nhân nếu có

– Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai

– Thủ tục bán, biếu, tặng, di chúc lại quyền sử dụng đất

– Mức đền bù giải phóng mặt bằng khi bị thu hồi,…

Các tư vấn về luật đất đai sẽ giúp bạn giải quyết các vấn đề liên quan một cách tốt nhất, tránh khỏi những sự sai sót dẫn đến các tranh chấp hay kiện tụng. Nhất là khi chuẩn bị mua bán nhà đất, liên quan đến giải phóng mặt bằng hay một vấn đề nào đó bạn càng cần đến sự hiểu biết để không bị mất quyền lợi chính đáng.

Lưu ý khi lựa chọn chỗ tư vấn luật đất đai

Liên quan đến luật là cần sự chính xác và thông tin tuyệt đối chuẩn. Vì vậy mà khi tìm tư vấn luật đất đai nên tìm một nơi, một công ty luật uy tín và đã có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực đất đai.

Để an tâm hơn, kinh nghiệm cho bạn đó là tìm đến sự giới thiệu và review từ người thân, đồng nghiệp, bạn bè. Từ các nguồn tin cậy bạn sẽ tìm được một nơi tin cậy để giải đáp thắc mắc.

Tìm sự tư vấn luật đất đai là cần thiết

Ở cuộc sống, đất đai nhà cửa là thứ ai cũng cần và muốn sở hữu. Để bảo đảm về quyền lợi và thực hiện đúng nghĩa vụ khi sử dụng đất đai là vô cùng quan trọng. Bởi vậy mà tư vấn luật đất đai trở nên cần thiết cho tất cả mọi người.

Khi xảy ra bất cứ một tranh chấp hay kiện tụng hay vấn đề liên quan đến đất đai đều được giải quyết dựa trên luật đất đai của nhà nước. Khi bạn nắm bắt được thông tin và hiểu biết các thông tin thông qua tư vấn pháp luật đất đai thì mọi chuyện bạn sẽ giải quyết dễ hơn, không bị mắc nhầm lẫn hay sai lầm.

Khuyến khích người dân chủ động nắm bắt luật và thực hiện cho đúng theo các quy định được nêu ra trong luật đất đai để không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bạn. Ví dụ thực tế là các trường hợp sử dụng đất đai sai pháp luật theo luật đất đai dẫn đến bị thu hồi hoặc bị tranh chấp bởi bên khác.

Luật đất đai nói riêng cần được người dân tìm hiểu và nắm bắt rõ ràng. Tránh xảy ra những vụ kiện tụng lớn và căng, dẫn đến thiệt hại cho tất cả các bên. Hãy tìm các trang để được tư vấn luật đất đai để có những cư xử và thực hiện đúng đắn nhất. Từ đó tạo ra một xã hội văn minh với những công dân cư xử văn minh.

Nguồn: embitalyvietnam

26 Tháng Mười, 2021 / by / in