Thêm kết quả...

Doanh nghiệp

Doanh nghiệp hàng không lại tiếp tục kêu cứu

 Trong văn bản gửi Bộ Giao thông vận tải (GTVT), Hiệp hội doanh nghiệp hàng không (VABA) đề nghị Bộ này kiến nghị Chính phủ cho các hãng hàng không vay ưu đãi 4.000 – 6.000 tỷ đồng với lãi suất 0%.

Theo VABA, từ khi bùng phát dịch lần thứ 4 ở Việt Nam tới nay các hãng hàng không lâm vào tình trạng nguy hiểm, doanh thu giảm 80-90%; dòng tiền thiếu hụt nghiêm trọng. Các nguồn lực về tài sản, tài chính tích lũy của các hãng bị cạn kiệt. Báo cáo của các hãng hàng không Việt Nam đều cho thấy nhu cầu cần được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn về vốn là cấp bách và quan trọng nhất.

VABA đề nghị Bộ GTVT xem xét, chấp thuận và có văn bản kiến nghị Chính phủ và Quốc hội và các Bộ, ngành liên quan cho các hãng hàng không khác vay gói tái cấp vốn 4.000 – 6.000 tỷ đồng, lãi suất 0% như đã thực hiện với Vietnam Airlines (gói 4.000 tỷ vay tối đa 3 năm). Số vay cụ thể căn cứ vào nhu cầu của từng hãng, vào quy mô, thị phần, đóng góp cho ngân sách trong thời gian qua và khả năng đáp ứng của ngân sách.

Hiệp hội này cũng đề nghị cho các hãng hàng không được vay gói 25.000-30.000 tỷ đồng ưu đãi lãi suất (nhà nước cấp bù lãi suất 4-5%) nhằm giúp các hãng chi thường xuyên, mua sắm vật tư thiết bị, thực hiện các chương trình dự án, bảo trì, duy trì hoạt động và phát triển trong và sau dịch.

Đối với vấn đề thuế, VABA đề nghị điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay về mức tối thiểu trong biểu thuế bảo vệ môi trường được quy định tại Luật Thuế bảo vệ môi trường hiện hành tức là về mức 1.000 đồng/lít.

Về mức phí, khung giá hỗ trợ theo Thông tư của Bộ GTVT Quy định mức giá, khung giá một số dịch vụ chuyên ngành hàng không tại cảng hàng không, sân bay Việt Nam, VABA đề nghị Bộ GTVT cho phép áp dụng mức hỗ trợ theo hướng: Từ ngày 1/1/2022 đến hết ngày 31/12/2022, áp dụng khung giá với mức tối thiểu bằng 50% mức tối thiểu, mức tối đa bằng 50% mức tối đa quy định tại Thông tư số 53/2019 của Bộ GTVT; giảm 50% phí dịch vụ tại nhà ga trong năm 2022 đối với khách bay nội địa để góp phần kích cầu du lịch.

Theo hiệp hội này, hàng không là ngành có tính lan tỏa rộng, là động lực phát triển của nền kinh tế đất nước. Dịch Covid-19 khiến nguồn thu sụt giảm mạnh đã đẩy nhiều hãng hàng không vào tình thế khó khăn, kiệt quệ về tài chính. Nguồn thu giảm mạnh nhưng chi thường xuyên của các hãng vẫn rất lớn, như chi trả tiền thuê, mua tàu bay; trả nợ, lãi ngân hàng; chi bảo hiểm; bảo dưỡng; chi trả lương….

Theo đánh giá của VABA, hàng không có triển vọng bùng nổ phát triển sau dịch rất cao, đặc biệt là hàng không tư nhân. Ở Thái Lan, dân số tương đương 75% Việt Nam, nhưng có đến 15 hãng hàng không. Tỷ lệ người dân Việt Nam sử dụng máy bay để di chuyển vẫn còn thấp, dự địa phát triển của thị trường hàng không Việt Nam còn rất lớn, triển vọng đóng góp, hỗ trợ trở lại cho ngân sách, cho nền kinh tế của các hãng hàng không còn nhiều.

Các chuyên gia quốc tế tính toán, hàng không tăng trưởng 2,5% sẽ góp phần kích thích tăng trưởng 1% GDP. Hàng không phát triển sẽ duy trì sức lan tỏa kinh tế tới các ngành khác; kết nối các chuỗi cung cấp, chuỗi hàng hóa, chuỗi giá trị; và góp phần tích cực trong việc phục hồi, phát triển kinh tế nước ta sau dịch.

Châu Như Quỳnh – Dân trí

7 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Xóa bỏ khoảng cách năng lực kỹ thuật số cho nữ giới

Vừa qua, quỹ ASEAN và Huawei đã ký kết Biên bản ghi nhớ về nỗ lực chung cùng rút ngắn khoảng cách năng lực kỹ thuật số tại sự kiện Ngày hội Đổi mới sáng tạo châu Á – Thái Bình Dương: Hội nghị Tài năng kỹ thuật số 2021.

Sự kiện hội nghị trực tuyến đã quy tụ sự tham gia của các chính trị gia, các nhà nghiên cứu và chuyên gia trong lĩnh vực để cùng chia sẻ giải pháp và thực thi tốt nhất trong việc xây dựng hệ sinh thái bền vững giúp nuôi dưỡng các tài năng kỹ thuật số ở châu Á – Thái Bình Dương.

Cam kết thu hẹp khoảng cách giữa các nhân tài kỹ thuật số ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở ASEAN, đã được củng cố hơn nữa với lễ ký kết Biên bản ghi nhớ giữa Quỹ ASEAN và Học viện Huawei ASEAN Academy. Thỏa thuận nêu bật sự sẵn sàng của cả hai bên trong việc triển khai chương trình Hạt giống cho tương lai ASEAN, đây là phiên bản mở rộng của chương trình “Hạt giống cho tương lai”, sáng kiến hàng đầu về CSR toàn cầu của Huawei đã cung cấp các chương trình đào tạo kỹ năng kỹ thuật số đẳng cấp thế giới cho thế hệ trẻ trên toàn cầu kể từ năm 2008. Thông qua chương trình Hạt giống cho tương lai ASEAN, Quỹ ASEAN và Học viện Huawei ASEAN Academy nỗ lực xây dựng năng lực kỹ thuật số của thế hệ trẻ ở mười Quốc gia thành viên ASEAN để họ có thể phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên kinh tế kỹ thuật số

Đặc biệt, Tiến sĩ Tiến sĩ Yang Mee Eng – Giám đốc Điều hành Quỹ ASEAN đã đưa ra phát biểu gây được thiện cảm và sự chú ý tại hội nghị: “Chương trình Hạt giống cho tương lai sẽ được triển khai ít nhất 40% học viên là phụ nữ, có nghĩa là chúng tôi rất là minh bạch, cũng như là muốn triển khai trực tuyến, thông qua quảng cáo, khuyến khích phụ nữ tham gia vào các chương trình của chúng tôi và hy vọng những chương trình này giúp xóa bỏ khoảng cách”.

Phát biểu trên được kỳ vọng có thể giúp lấp đầy những khoảng trống trong lĩnh vực ICT một cách kịp thời. Điều này hoàn toàn phù hợp với bối cảnh tại Việt Nam khi, đặc biệt trong ngành CNTT, sự mất cân bằng giới tính được thể hiện từ các chế độ đãi ngộ, lương thưởng cho đến toàn bộ các vấn đề khác có sự hiện diện của phụ nữ trong ngành.

Xóa bỏ khoảng cách năng lực kỹ thuật số cho nữ giới - 2

Tiến sĩ Tiến sĩ Yang Mee Eng – Giám đốc Điều hành Quỹ ASEAN đã đưa ra phát biểu
gây được thiện cảm và sự chú ý tại hội nghị.

Theo kết quả nghiên cứu về “Mục tiêu cân bằng giới tính: Góc nhìn từ ngành CNTT” được thực hiện tại 7 quốc gia nhằm thu thập ý kiến của hơn 2.000 phụ nữ trên toàn thế giới công bố năm 2019, việc thiếu các hình mẫu phụ nữ thành công trong ngành CNTT được coi là một trong những nguyên nhân chính của sự mất cân bằng giới tính tại nơi làm việc. 90% người Việt Nam được hỏi tin rằng cần thu hút thêm nhiều phụ nữ gia nhập ngành CNTT, nhằm tạo ra sự đa dạng về giới, tính cách, cách tiếp cận và giải quyết vấn đề.

You Lim Hour – một cựu nữ học viên chia sẻ trải nghiệm khi tham gia chương trình Chương trình Hạt giống cho tương lai”: Chúng tôi không chỉ học từ các giảng viên đại học mà còn từ các doanh nghiệp, phòng lab, văn phòng của Huawei và từ chương trình này, nó đã giúp tôi mở rộng phạm vi kiến thức của tôi về công nghệ, mở rộng tầm nhìn về cuộc sống và kiến thức ICT. Sau khi tham gia chương trình này, tôi cũng đã nhận ra công nghệ đóng vai trò quan trọng trong cộng đồng, xã hội. Tôi làm việc cho bộ phận quan hệ công chúng của Huawei tại Campuchia, nó cũng cho phép chúng tôi áp dụng những kiến thức đã học được trong công việc, ví dụ là những trang bị kiến thức công nghệ cơ bản. Sau chương trình Hạt giống cho tương lai, tôi có thể truyền tải các thông điệp một cách thú vị, rõ ràng hơn thông qua sử dụng công nghệ để kể chuyện.

Chương trình Hạt giống cho tương lai ASEAN cũng sẽ góp phần đạt được các mục tiêu của Kế hoạch tổng thể về kỹ thuật số ASEAN 2025, đó là nâng cao năng lực của thế hệ trẻ trong khu vực tham gia vào nền kinh tế kỹ thuật số và tạo ra một xã hội kỹ thuật số tại ASEAN. Chương trình Hạt giống cho tương lai ASEAN dự kiến ra mắt vào đầu năm 2022, mời gọi các bạn trẻ từ 15-30 tuổi ở ASEAN tham gia vào hành trình đào tạo ảo nâng cao năng lực về kỹ năng lãnh đạo và kỹ thuật số.

Trường Thịnh – Dân trí

6 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Ngành nào vẫn “hốt bạc” khi 106.500 doanh nghiệp “chết lâm sàng”?

Kinh tế tăng trưởng chậm nhất 35 năm qua, bình quân mỗi tháng phải chứng kiến gần 9.700 doanh nghiệp rời bỏ thị trường. Thế nhưng, trong bối cảnh đó vẫn có những ngành nghề rất “khỏe”.

Kinh tế “đi lùi”, nông nghiệp trở thành bệ đỡ

Nêu đánh giá tại báo cáo xếp hạng Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021 vừa công bố, Vietnam Report cho biết, trải qua gần 2 năm kể từ khi đại dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát, kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn.

Nhìn chung, các chỉ số kinh tế vĩ mô đều cho thấy nền kinh tế đã bị tổn thương trên nhiều phương diện và cần nhiều nỗ lực để hướng đến một giai đoạn hồi phục và tiếp tục tăng trưởng.

Năm 2020, mặc dù thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương nhưng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã giảm xuống mức 2,9%. Với những giải pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch thì đến quý III, tăng trưởng kinh tế suy giảm kỷ lục với mức -6,17% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính chung trong 9 tháng đầu năm nay, tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế chỉ đạt 1,42%. Đây là mức tăng trưởng chậm nhất kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới (năm 1986) cho đến nay.

Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế 9 tháng chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước cho thấy hậu quả của đợt bùng phát đại dịch Covid-19 gần đây nhất tại Việt Nam. Đợt bùng phát trên diện rộng tại nhiều tỉnh, thành phố đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh.

Trong bức tranh ảm đạm của nền kinh tế 9 tháng qua thì khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn là “bệ đỡ” vững chắc cho an ninh lương thực quốc gia khi có mức tăng 2,74%, bên cạnh đó là khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,57% nhưng khu vực dịch vụ lại giảm 0,69%.

Số liệu nghiên cứu từ bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 so với bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 cũng cho thấy tổng doanh thu của nhóm ngành nông lâm thủy sản có mức tăng đáng kể 25,7%, trong khi khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực dịch vụ tương ứng giảm 14,8% và 5,9% so với năm ngoái.

Xét về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp trong bảng xếp hạng VNR500 năm nay, tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) bình quân và tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) bình quân của các doanh nghiệp bị giảm so với bảng xếp hạng VNR500 năm ngoái.

Cụ thể, ROA bình quân của các doanh nghiệp VNR500 năm nay đạt 5,31% – giảm 0,42 điểm phần trăm so với bảng xếp hạng VNR500 năm 2020. Chỉ số ROS bình quân cũng giảm xuống 6,15% so với mức 6,58% của năm ngoái. Ở chiều ngược lại, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân tăng nhẹ từ 16,24% trong bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 lên 16,42% trong năm nay.

106.500 doanh nghiệp phải rút khỏi thị trường

Từ thống kê của bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 cho thấy hầu hết các ngành đều có sự sụt giảm về tổng doanh thu so với bảng xếp hạng năm ngoái. Các ngành bán lẻ, thép, tài chính và điện ghi nhận tổng doanh thu tăng trưởng dương trong bảng xếp hạng năm 2021 so với năm 2020.

Ngành nào vẫn hốt bạc khi 106.500 doanh nghiệp chết lâm sàng? - 2

Các nhóm ngành còn lại chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về tổng doanh thu trong năm qua. Những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch là vận tải – logistics, khoáng sản – xăng dầu, cơ khí và thực phẩm – đồ uống.

Như vậy, đợt bùng phát đại dịch Covid-19 mới nhất đã đẩy cộng đồng doanh nghiệp vào những khó khăn, thách thức to lớn. Nhiều doanh nghiệp bị đóng cửa hoặc giảm công suất hoạt động và đối mặt với nguy cơ phá sản khi nguồn lực bị hao hụt. Chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế bị gián đoạn thậm chí “đứt gãy” do các đợt giãn cách xã hội liên tiếp.

Đặc biệt lưu ý là tình trạng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tính chung 11 tháng qua đang lan rộng với 106.500 doanh nghiệp, đồng nghĩa với bình quân mỗi tháng có gần 9.700 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Số liệu thống kê từ bảng xếp hạng VNR500 năm nay đối với 270 doanh nghiệp niêm yết đã công bố báo cáo tài chính quý III cho thấy có 40,4% doanh nghiệp vẫn giữ vững được đà tăng trưởng doanh thu trong suốt giai đoạn 2019 – 2020 và 9 tháng đầu năm. Bên cạnh đó, 23,3% doanh nghiệp đã bắt đầu phục hồi và lấy lại được đà tăng trưởng doanh thu trong 9 tháng đầu năm nay.

Ngành nào vẫn hốt bạc khi 106.500 doanh nghiệp chết lâm sàng? - 3

Như vậy, có tới 63,7% doanh nghiệp ghi nhận doanh thu 9 tháng đầu năm tăng lên so với cùng kỳ năm trước. Đây là dấu hiệu tích cực minh chứng cho những nỗ lực và khả năng thích ứng của các doanh nghiệp.

Ngoài ra, 15,2% doanh nghiệp trong số này bị tăng trưởng chậm lại và ghi nhận mức doanh thu 9 tháng giảm so với cùng kỳ năm 2020. Còn lại, 21,1% doanh nghiệp thuộc nhóm phục hồi chậm với doanh thu giảm 2 kỳ liên tiếp – doanh thu năm 2020 giảm so với năm 2019 và 9 tháng đầu năm 2021 giảm so với cùng kỳ năm trước.

Trong khảo sát của Vietnam Report đối với Top 500 doanh nghiệp lớn Việt Nam cũng cho thấy những đánh giá tổng quan của cộng đồng doanh nghiệp VNR500 đối với tác động tiêu cực của đại dịch.

Cụ thể, 48,7% số doanh nghiệp phải cắt giảm nhân sự, cùng với đó có tới 48% số doanh nghiệp bị giảm năng suất lao động và lượng khách hàng cũng bị giảm 47,4% so với khi dịch chưa bùng phát. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm xuống đáng kể theo đánh giá của 57,9% doanh nghiệp VNR500; đi cùng với đó là 67,1% doanh nghiệp cho biết mức chi phí của họ tăng lên trong thời gian này.

Mai Chi – Dân trí

6 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Doanh nghiệp ứng phó với cuộc khủng hoảng container như thế nào?

Tình trạng thiếu hụt nguồn cung container đẩy giá cước vận tải tăng vọt, khiến các nhà bán lẻ và doanh nghiệp Mỹ đã phải “đau đầu” tính toán sao cho những mặt hàng được bày bán có chi phí hợp lý nhất.

Thế giới đang chứng kiến “cơn khát” container – những hộp thép khổng lồ đóng vai trò là một “mắt xích” trong chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu. Tình trạng thiếu hụt nguồn cung container trầm trọng đã đẩy giá cước vận tải tăng vọt, do đó các nhà bán lẻ và doanh nghiệp Mỹ đã phải “đau đầu” tính toán sao cho những mặt hàng được bày bán có chi phí hợp lý nhất.
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng container
Doanh nhân người Mỹ Malcolm McLean đã sáng chế ra container vận chuyển cách đây 65 năm để dễ dàng chuyển hàng hóa từ xe tải lên tàu và ngược lại. Theo ông Willy Shih, Giáo sư ngành Quản trị chuỗi cung ứng tại Trường Kinh doanh Harvard (thuộc Đại học Harvard), trước khi container ra đời, những người bốc vác hàng phải xếp từng kiện hàng lên tàu, việc này vừa mất thời gian và vừa tốn kém. Vận chuyển bằng container là một cuộc cách mạng đối với thương mại toàn cầu, và trở thành một trụ cột của nền kinh tế Mỹ.
Tuy nhiên, ông Willy Shih chỉ ra rằng, sự mất cân bằng thương mại ngày càng nới rộng, với khối lượng hàng hóa mà Mỹ nhập khẩu từ châu Á nhiều hơn xuất khẩu. Tàu chở hàng đến Mỹ thường bị mắc kẹt tại các cảng biển trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng, do hoạt động bốc dỡ hàng mất rất nhiều thời gian.
Đặc biệt, từ đầu năm 2020 đến nay, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhiều bến cảng bị đóng cửa và tình trạng thiếu nhân viên khiến hoạt động vận chuyển hàng hóa bị gián đoạn. Trong khi đó, nhu cầu đối với hàng tiêu dùng lại tăng mạnh.
Giáo sư kinh tế tại Đại học Bang California, ông Seiji Steimetz, chỉ ra rằng đại dịch đã khiến nhiều người thay đổi cách mua sắm. Ngày càng nhiều người mua hàng trực tuyến từ các nhà bán lẻ như Amazon, Walmart và Target – những công ty chủ yếu dựa vào hàng nhập khẩu.

Khi các biện pháp giãn cách xã hội nhằm hạn chế lây lan dịch COVID-19 được triển khai, nhiều người ở nhà hơn, dẫn đến nhu cầu mua hàng hóa tăng lên và chi tiêu cho dịch vụ giảm đi. Doanh số bán nhà, ô tô và đồ chơi đều tăng trong thời kỳ đại dịch khi người tiêu dùng không chi tiền cho khách sạn, nhà hàng hay các quán bar.
Ông Seiji Steimetz nói thêm: “Nền kinh tế thế giới đang hồi phục sau giai đoạn ‘đóng băng’ do đại dịch. Ngày càng nhiều mặt hàng được nhập khẩu (vào Mỹ) hơn, điều này cũng tạo gánh nặng lên toàn bộ chuỗi cung ứng”.
Theo dữ liệu của Bộ Thương mại Mỹ, chỉ trong tháng 9/2021, Mỹ đã nhập khẩu số lượng hàng hóa trị giá 47,4 tỷ USD từ Trung Quốc, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2020, trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tháng trở lại đây.
Niels Larsen, Chủ tịch phụ trách vận tải hàng không và đường biển khu vực Bắc Mỹ tại công ty vận tải và hậu cần DSV, nhấn mạnh đến một lý do khác, đó là tình trạng khan hiếm nhân viên bốc xếp tại các cảng, kho hàng và thiếu tài xế xe tải. Đây là nguyên nhân khiến khoảng 3 triệu container trên thế giới đang bị tắc nghẽn.
Các chuyên gia vận tải cho biết, cách khắc phục không chỉ đơn giản là tăng thêm số lượng container vì nguyên nhân thiếu hụt container có liên quan chặt chẽ đến chính sách đóng cửa biên giới của các nước, hoạt động kinh doanh trì trệ của doanh nghiệp, cũng như tình trạng thiếu lao động và những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế.
Theo công ty tư vấn Drewry Shipping Consultants, các nhà sản xuất container – chủ yếu tập trung ở Trung Quốc – dự kiến sẽ tăng sản lượng lên 6,4 triệu container trong năm nay, cao gấp đôi so với mức trước đại dịch. Tuy nhiên, những nỗ lực đó đang bị cản trở bởi tình trạng thiếu nguyên liệu thô như thép và gỗ xẻ, và khan hiếm thợ hàn.
Nỗ lực ứng phó từ phía doanh nghiệp
Giá một container vận chuyển dài 40 feet (tương đương hơn 12 m) đã tăng từ 1.700 USD vào cuối năm 2019 lên 6.000 USD vào cuối năm 2020 và gần 11.000 USD vào giữa năm 2021. Trước tình hình đó, Chính phủ Mỹ mới đây đã công bố các biện pháp nhằm tăng cường công suất tại các cảng của Mỹ, như Long Beach và Los Angeles. Tuy nhiên, các nhà bán lẻ không đặt nhiều kỳ vọng vào những nỗ lực này, đặc biệt là khi mùa mua sắm dịp lễ hội cuối năm đang cận kề.

Container hàng hóa được bốc dỡ tại Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Ảnh: THX/TTXVN

Một số “người khổng lồ” bán lẻ như hãng sản xuất đồ nội thất Ikea đã sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để mua container chuyên chở hàng của riêng họ. Nhiều công ty khác, như Walmart, Target, Home Depot và Costco, thì lựa chọn thuê bao cả tàu để vận chuyển những mặt hàng có nhu cầu cao trong dịp cuối năm.
Nhằm khai thác tối đa không gian chứa hàng của container, các nhà bán lẻ phải tính toán kỹ lưỡng tất cả các yếu tố, từ kích thước, nhu cầu và giá thành của sản phẩm để tiết kiệm chi phí tối đa.
Magi Raible, chủ sở hữu của hãng sản xuất túi du lịch LiteGear Bags ở California (Mỹ), đã dành hàng tuần, thậm chí hàng tháng để tìm kiếm các container vận chuyển hàng hóa của hãng từ các nhà máy ở Trung Quốc đến Mỹ. Cô Magi Raible cho biết: “Khi giá cước vận tải tăng chóng mặt, bài toán này không phù hợp với những mặt hàng lớn và cồng kềnh nữa”. Cô đã ưu tiên nhập khẩu những mặt hàng nhẹ và nhỏ gọn để bán trước, và tạm thời để lại một số sản phẩm dù đang bán chạy nhưng có cước phí quá đắt.
Một số cửa hàng quyết định nhập khẩu số lượng lớn các đồ trang trí và quà tặng cho mùa Giáng Sinh vì nếu không bán hết họ có thể để đến năm sau. Các nhà phân tích cho biết nhiều nhà sản xuất đồ điện tử đang cố gắng tích trữ nhiều món đồ kích thước nhỏ như máy tính bảng và tai nghe.
Theo Bà Nora O’Leary, Chủ tịch công ty đồ chơi Manhattan Toy Co., các mặt hàng bán chạy và có lãi nhất sẽ được ưu tiên, nhưng kể cả như vậy, công ty vẫn gặp nhiều rắc rối trong khâu vận chuyển. Bà Nora cho biết ít nhất 1 container hàng của công ty vẫn nằm ở cảng Los Angeles từ tháng Chín đến nay. Bà Nora chia sẻ: “Chúng tôi chỉ ưu tiên những mặt hàng mà chúng tôi biết chắc chắn sẽ bán được. Khi chi phí vận chuyển cao gấp 6-7 lần so với năm ngoái, chúng tôi không dám chấp nhận rủi ro với các sản phẩm mới.”
Chủ tịch công ty đồ chơi Sky Castle Toys, Joshua Loerzel, cho biết các nhà bán lẻ đã yêu cầu công ty thu nhỏ kích cỡ vỏ hộp đồ chơi để giảm chi phí vận chuyển. Do đó, gần đây công ty đã thu nhỏ 20% hộp bộ đồ chơi LetsGlow Studio. Với kích thước mới, một container 40 feet có thể xếp được 11.900 hộp, so với 8.700 hộp như trước.
Theo ông Joshua, việc “thu nhỏ” kích cỡ vỏ hộp này đã đi ngược lại các tiêu chí truyền thống trong ngành công nghiệp sản xuất đồ chơi. Nhưng giờ đây, thay vì cố gắng thu hút sự chú ý của người tiêu dùng bằng bao bì lớn và hào nhoáng, trước hết các sản phẩm phải được chọn để bày lên kệ đã.

Nguồn: Bnews
6 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Doanh nghiệp ưu tiên điều gì trong thời kỳ “bình thường mới”?

Theo khảo sát, bên cạnh việc ủng hộ Chính phủ đẩy mạnh tiêm chủng vaccine phòng COVID-19, các doanh nghiệp còn mong muốn Chính phủ hỗ trợ lãi suất, kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô.

Theo tin từ Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report), trong bối cảnh toàn cầu và nền kinh tế trong nước vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức của đại dịch COVID-19, với tâm thế “sống chung cùng dịch bệnh” nhưng chủ động phòng ngừa an toàn để tránh dịch, kết quả khảo sát của Vietnam Report về chiến lược ưu tiên trong thời kỳ bình thường tiếp theo của các doanh nghiệp hiện nay cho thấy 76,3% doanh nghiệp quyết định tăng cường sử dụng công nghệ mới, đầu tư vào đổi mới sáng tạo và R&D; 71,1% doanh nghiệp lựa chọn bảo vệ hoạt động kinh doanh cốt lõi; 65,8% doanh nghiệp sẽ mở rộng sang các thị trường hoặc phân khúc mới; 64,5% doanh nghiệp thực hiện cải thiện năng lực kỹ thuật số của doanh nghiệp và 50% doanh nghiệp quan tâm tới việc nâng cao trách nhiệm xã hội.

Nhìn chung, trong thời gian tới, các doanh nghiệp VNR500 vẫn sẽ tập trung chú trọng tới ứng dụng công nghệ số một cách toàn diện, kiên định bảo vệ hoạt động kinh doanh cốt lõi và từng bước mở rộng phạm vi kinh doanh tới các thị trường tiềm năng.

56% doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh

Ông Vũ Đăng Vinh, Tổng Giám đốc Vietnam Report cho biết, có 56% doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý 4/2021; trong đó, gần 40% doanh nghiệp đánh giá tình hình kinh doanh sẽ dần đi vào ổn định và diễn biến thị trường sẽ tốt hơn. Đối với từng nhóm ngành chính trong nền kinh tế, cũng cho thấy một tỷ lệ nhất định doanh nghiệp lạc quan về cơ hội trong thời kỳ bình thường tiếp theo.

Khoảng 10% doanh nghiệp ngành bán lẻ nhận định thị trường sẽ nhanh chóng hồi phục và kết quả kinh doanh sẽ khởi sắc; hơn 20% doanh nghiệp ngành thực phẩm đồ uống cho rằng đã chuẩn bị cho sự hồi phục trở lại của thị trường; 58% doanh nghiệp ngành ngân hàng tài chính vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tin tưởng vào khả năng phục hồi kinh tế cuối năm.

Trong bối cảnh nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức khi dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp với những biến chủng virus mới có nhiều nguy cơ tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng, Vietnam Report nhận định sẽ có một số cơ hội trong những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022.

Tỷ lệ tiêm vaccine trong cộng đồng tăng lên nhanh chóng khi mà tính đến đầu tháng 11/2021 đã có trên 83% người từ 18 trở lên đã được tiêm ngừa ít nhất 1 liều vaccine phòng COVID-19 tại Việt Nam. Các khu vực là trung tâm sản xuất vùng đều có tỷ lệ che phủ vaccine ở mức cao, trên 95% dân số trưởng thành.

Như vậy, tốc độ tiêm chủng và độ che phủ vaccine tăng lên nhanh chóng cho thấy các cơ hội lớn cho việc tái khởi động lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong quý quan trọng nhất của năm.

Tình hình thị trường quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực do ngày càng nhiều quốc gia chuyển sang giai đoạn “bình thường mới” và hướng đến “sống chung an toàn với dịch.” Trong bối cảnh một số quốc gia lân cận theo đuổi chiến lược “Zero COVID,” nền kinh tế Việt Nam đang dần chuyển hướng sang tiếp cận chiến lược “sống chung an toàn với dịch.”

Do đặc thù của nền kinh tế, nếu tiếp tục chiến lược “Zero COVID,” chậm mở cửa, cơ hội đầu tư sẽ không quay lại Việt Nam và có nguy cơ tụt hậu trong quá trình phục hồi kinh tế. Thêm vào đó, các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, như Bắc Mỹ, EU và Đông Á cũng đang có sự hồi phục tốt về nhu cầu tiêu dùng.

Doanh nghiep uu tien dieu gi trong thoi ky Công nhân Công ty cổ phần càphê hòa tan Trung Nguyên tại Bắc Giang. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam có thể vượt qua được giai đoạn khó khăn này khi mà thị trường quốc tế đang vào giai đoạn cuối năm với sức tiêu thụ tăng mạnh phục vụ các kỳ nghỉ dài vào cuối năm 2021.

Các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ đã được thực hiện và chuẩn bị được thực hiện. Cụ thể là các chính sách giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp và các gói hỗ trợ cho dân cư tại các thành phố lớn. Các doanh nghiệp được gia hạn, miễn giảm tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất đã cho thấy sự chung tay giúp sức của cả cộng đồng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh.

[Tạo động lực tăng trưởng cho vùng, “cởi trói” cho doanh nghiệp]

Nhìn chung, các chính sách này đã giúp giảm áp lực thanh toán của các doanh nghiệp trong điều kiện lực cầu của thị trường đang còn khá yếu như hiện nay. Đây cũng là kỳ vọng lớn nhất của 82,9% doanh nghiệp trả lời khảo sát mong muốn Chính phủ tiếp tục thực hiện để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới.

Đó là nguồn tài chính giúp doanh nghiệp có thể quay vòng vốn, cũng như thanh toán một phần công nợ, giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt hiệu quả tốt hơn. Các địa phương có những chính sách hỗ trợ người dân về nguồn chi phí sinh hoạt cũng giúp hồi phục phần nào lực cầu của thị trường.

Trong khảo sát doanh nghiệp VNR500 của Vietnam Report, bên cạnh việc ủng hộ Chính phủ ưu tiên đẩy mạnh tốc độ và mở rộng quy mô tiêm chủng vaccine phòng COVID-19; chuẩn bị sẵn các kịch bản ứng phó nếu dịch tái bùng phát; các doanh nghiệp còn mong muốn Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất để giảm chi phí vay nợ; kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.

Đây là những vấn đề chính sách cốt yếu đề xuất với Chính phủ để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong thời kỳ bình thường tiếp theo.

Các gói kích thích đầu tư công cũng như giảm lãi suất đang được triển khai hoặc dự kiến được triển khai trong thời gian tới đã hỗ trợ tích cực cho việc giúp hồi phục lại lực cầu của nền kinh tế. Nhiều dự án hạ tầng kinh tế-xã hội được triển khai và tăng tốc đã giúp kích hoạt các hoạt động kinh tế-xã hội tại nhiều địa phương.

Với vai trò quan trọng của việc tăng mạnh chi tiêu công như “vốn mồi,” các hoạt động kinh tế xã hội được kỳ vọng sẽ hồi phục nhanh hơn trong thời gian tới. Các gói kích thích kinh tế lớn đang được bàn thảo cũng sẽ mở ra những cơ hội lớn cho cộng đồng doanh nghiệp trong năm 2022.

Mở cửa hoàn toàn nền kinh tế có thể được triển khai trong thời gian tới

Việc mở cửa hoàn toàn nền kinh tế đang được đưa ra thảo luận và có thể được triển khai trong thời gian tới sẽ là “cú hích” lớn cho việc phục hồi các ngành dịch vụ như du lịch, hàng không cũng như hoạt động dịch vụ tại nhiều địa phương. Việc mở cửa đối với khách du lịch sẽ là cú hích giúp thị trường trong nước có thêm nguồn lực để chính thức bước vào giai đoạn tái thiết, phục hồi và phát triển.

Song song với những cơ hội ấy, cũng đặt ra nhiều thách thức khi đại dịch COVID-19 vẫn diễn biến rất phức tạp và khó lường. Theo ông Vinh, các biến thể mới của virus vẫn đang đe dọa nghiêm trọng thành quả chống dịch của nhân loại trong gần 2 năm qua.

Tình trạng thiếu hụt vaccine ngừa COVID-19 cũng như thời gian hiệu lực của vaccine trong sử dụng cũng đang là thách thức cho nhiều quốc gia trong việc hướng đến một giai đoạn “bình thường mới.”

Bên cạnh năng lực sản xuất bị giảm, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng đơn hàng bị huỷ do nhu cầu của khách hàng giảm mạnh. Việc tăng giá các mặt hàng như xăng, dầu, gas, than… sẽ đẩy giá thành lên cao, chi phí sản xuất cũng tăng lên, khiến giá hàng tiêu dùng trong nước tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế.

Trả lời khảo sát của Vietnam Report, các doanh nghiệp VNR500 cho biết có 3 tác động và thách thức đáng kể nhất ảnh hưởng tới tăng trưởng của doanh nghiệp trong 11 tháng năm nay, đó là khó khăn do thị trường trong và ngoài nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng, khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới và khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào.

Doanh nghiep uu tien dieu gi trong thoi ky Dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH Bokwang Vina. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)

Chỉ xét riêng các tác động tiêu cực trong đợt bùng phát dịch lần thứ tư vừa qua, theo kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành trong tháng 11/2021 cho thấy, 92% doanh nghiệp bị gián đoạn quy trình làm việc do nhân sự tuân thủ giãn cách xã hội; 89,2% doanh nghiệp có chi phí sản xuất tăng vọt do phương án 3 tại chỗ, cước vận chuyển, bị phạt vì vi phạm hợp đồng; 81,9% doanh nghiệp bị giảm sản lượng do gián đoạn sản xuất; 77,8% doanh nghiệp gặp ách tắc trong hoạt động mua nguyên vật liệu đầu vào.

Tình trạng lạm phát gia tăng trên toàn thế giới trong bối cảnh giá cả năng lượng, nhiên liệu, vận tải trên toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu nguyên vật liệu vẫn bị tác động tiêu cực do tình trạng ách tắc trong vận tải quốc tế và phí vận tải tăng cao.

Mặc dù quá trình mở cửa kinh tế đang được thúc đẩy nhưng bối cảnh hiện nay đang làm dấy lên lo ngại về sự kết hợp giữa tăng trưởng giảm sút nhưng mặt bằng lạm phát lại tăng cao. Đây là vấn đề có nguy cơ ảnh hưởng tới nỗ lực kích thích nền kinh tế của các ngân hàng trung ương để thoát khỏi khủng hoảng trong thời gian tới.

Cùng với đó là tình trạng thiếu hụt lao động tiếp tục lan rộng đang ảnh hưởng tiêu cực khi các doanh nghiệp tái sản xuất, kinh doanh trở lại. Sau thời gian dài bị gián đoạn sản xuất kinh doanh thì thiếu hụt lao động và chi phí lao động tăng cao tiếp tục là các ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19.

Các chi phí y tế phát sinh từ việc phòng chống dịch bệnh cho đội ngũ công nhân cũng đe dọa hoạt động của doanh nghiệp vì chi phí tăng làm giá thành sản xuất bị “đội lên” và giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp./.

Ngọc Quỳnh (TTXVN/Vietnam+)
6 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Doanh nghiệp xoay xở kiếm tiền, giữ người bằng thưởng Tết “như năm trước”

Còn 2 tháng nữa mới đến Tết Nguyên đán nhưng nhiều doanh nghiệp đã lên phương án thưởng Tết cho nhân viên với tiêu chí “thưởng bằng năm trước”.

“Không phải bây giờ mà ngay từ đầu năm chúng tôi đã đề ra mục tiêu thưởng Tết nên cuối năm cứ thế triển khai”, ông N.M, giám đốc một công ty dược ở Hà Nội chia sẻ với Dân trí.

Theo ông M., từ đầu năm, công ty ông đã đề ra mục tiêu thưởng Tết kèm theo tiêu chí rõ ràng cho từng phòng ban, từng nhân viên. Theo thống kê sơ bộ, những nhân viên xuất sắc của công ty sẽ được hưởng mức thưởng Tết từ 40 đến 50 triệu đồng/người.

Ông M. cho biết, để có được mức thưởng Tết như trên, đa số nhân viên công ty đã đi làm không có ngày nghỉ trong năm nay. Hơn nữa, việc nhân viên đăng ký đi làm thêm ở công ty là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc. “Đó cũng chính là lý do, công ty tôi vẫn giữ mức thưởng Tết cao, không cắt giảm tiền lương, không sa thải nhân sự trong suốt mùa dịch Covid-19 vì mọi người đã cố gắng rất nhiều”, vị giám đốc nói.

Tuy nhiên, ông M. cũng thừa nhận, dịch Covid-19 bùng phát khiến lợi nhuận của doanh nghiệp giảm sút nhưng để giữ chân người lao động, ông vẫn phải làm mọi cách, xoay xở kiếm tiền thưởng Tết cho anh em.

Cùng chung quan điểm, ông N.H, chủ một doanh nghiệp sản xuất nước mắm ở Thanh Hóa cũng quyết định giữ nguyên mức thưởng Tết cho nhân viên bằng năm ngoái. Theo đó, người lao động sẽ được thưởng thêm một tháng lương thứ 13 và một phần quà của công ty. Đặc biệt, với những người có hoàn cảnh khó khăn, ông sẽ có chính sách hỗ trợ thêm.

“Mọi người đi làm cả năm, cống hiến cả năm nên chuyện mong, ngóng, chờ thưởng Tết là thường tình. Tuy nhiên, thưởng Tết cao hay thấp còn phụ thuộc lớn vào việc làm ăn của công ty. Nếu công ty không khó khăn quá thì nên có phần quà nho nhỏ động viên mọi người”, ông H. bày tỏ.

Theo ông H., việc thưởng Tết không chỉ là phần thưởng động viên công nhân mà còn là cách giữ nguồn lao động ổn định sau Tết. Thế nên, công ty ông thường phải trích lập quỹ thưởng Tết từ đầu năm để có khoản lớn chi trả vào cuối năm.

Trong khi đó, ông L.P, giám đốc một công ty du lịch ở Hà Nội cho biết, “thưởng Tết 2021 chỉ mang tính tượng trưng”. Do bởi, ngành du lịch gần như bị đóng băng, tê liệt từ khi có dịch Covid-19 nên doanh nghiệp không doanh thu trong năm qua.

“Công ty tôi sống sót đến bây giờ đã là một kỳ tích. Chúng tôi đã phải thay đổi, chuyển đổi mô hình liên tục để không bị phá sản. Điều này, anh em trong công ty cũng hiểu và thông cảm với ban lãnh đạo sau khi nghe phương án thưởng Tết năm 2021”, ông P. kể.

Theo đó, vào Tết dương lịch, người lao động công ty ông P. sẽ được thưởng 500.000 đồng/người, Tết âm lịch là 2 triệu đồng/người.

Nói với Dân trí, chị O.P, nhân viên một công ty sách ở Hà Nội cho biết, năm nay công ty nơi chị làm gặp khá nhiều khó khăn từ khi dịch Covid-19 bùng phát. Vào thời điểm giãn cách xã hội, toàn bộ nhân viên ở công ty đã bị cắt giảm 10 – 15% tiền lương mỗi tháng.

“Nên bây giờ, chúng tôi chỉ mong lương hàng tháng không bị cắt giảm, chứ đừng nói đến câu chuyện xa xôi là có thưởng Tết hay không. Nhưng tôi nghĩ vẫn có, chẳng qua là ít hay nhiều thôi, vì cuối năm, các nhà sách thường tổ chức hội chợ và đây sẽ là nguồn thu lớn của doanh nghiệp”, chị P. chia sẻ.

An Chi – Dân trí

6 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Thúc đẩy hợp tác giữa 20.000 doanh nhân nữ Hàn Quốc với doanh nghiệp do nữ làm chủ Việt Nam

Doanh nghiệp nữ Hàn Quốc mong muốn hợp tác với doanh nghiệp do nữ làm chủ Việt Nam trong lĩnh vực nuôi trồng dược liệu, xây dựng bệnh viện, giáo dục, công nghệ thông tin, xây nhà vệ sinh công cộng, trung tâm dưỡng lão…

Đó là nội dung trao đổi giữa bà Nguyễn Thị Tuyết Minh, Chủ tịch Hội đồng Doanh nhân nữ Việt Nam (VWEC) và ông Shin Baik Sun, Giám đốc Tài chính Công ty TNHH Đối tác KOH – Đại diện cho Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz (Hàn Quốc).

Cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo hai tổ chức chuyên về doanh nhân nữ với kỳ vọng kết nối các doanh nghiệp do nữ làm chủ thuộc hội viên của Hội đồng Doanh nhân nữ Việt Nam (VWEC) và Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz (Hàn Quốc), qua đó thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa doanh nghiệp nữ hai nước.

Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz thuộc Hiệp hội đổi mới doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc. Innobiz hiện có hơn 20.000 thành viên, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh.

Tại cuộc gặp, ông Shin Baik Sun cho biết, các doanh nghiệp thuộc Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz rất mong được hợp tác với doanh nhân nữ Việt Nam trong lĩnh vực nuôi trồng dược liệu, xây dựng bệnh viện, giáo dục, công nghệ thông tin.

Ngoài ra, việc xây nhà vệ sinh công cộng, trung tâm dưỡng lão… cũng là những lĩnh vực mà các thành viên Innobiz quan tâm hợp tác với doanh nhân nữ Việt Nam. Các lĩnh vực trên sẽ được phía doanh nghiệp Hàn Quốc tài trợ không hoàn lại.

Không chỉ vậy, các doanh nghiệp do nữ làm chủ tại Hàn Quốc còn đặc biệt bày tỏ sự ưu tiên hỗ trợ đối với những doanh nghiệp Việt Nam do nữ doanh nhân làm chủ có cuộc sống đơn thân, li hôn hoặc nuôi con một mình.

Bày tỏ vui mừng trước các đề xuất trên, bà Nguyễn Thị Tuyết Minh, Chủ tịch VWEC mong muốn nhận được thêm nhiều thông tin về hồ sơ năng lực, nhu cầu hợp tác, đầu tư của doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam để thuận tiện hơn trong việc thẩm định.

“Việc nhận được thông tin đầy đủ sẽ giúp cho vai trò kết nối của VWEC và Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz đối với các doanh nghiệp hai bên sẽ đạt hiệu quả cao nhất”, bà Minh nhận định.

Ông Shin Baik Sun - đại diện Ủy ban doanh nhân nữ INNOBIZ tặng quà lưu niệm cho Hội đồng Doanh nhân nữ Việt Nam
Ông Shin Baik Sun – đại diện Ủy ban doanh nhân nữ INNOBIZ tặng quà lưu niệm cho Hội đồng Doanh nhân nữ Việt Nam

Nhấn mạnh về việc tăng cường sự kết nối, bà Minh cho rằng trong thời gian tới hai bên nên tăng cường hơn nữa sự giao lưu để doanh nghiệp hai nước có cơ hội học tập kinh nghiệm lẫn nhau.

Đặc biệt, VWEC kỳ vọng đưa sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam do nữ làm chủ xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc nhất là đối với mặt hàng may mặc. Mặt khác, VWEC sẽ là cầu nối để kết nối Innobiz với các doanh nghiệp do nữ làm chủ trong khối ASEAN.

Đồng tình với quan điểm của bà Minh, ông Shin Baik Sun, Giám đốc Tài chính Công ty TNHH Đối tác KOH – Đại diện cho Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz cho biết, trong thời gian tới Ủy ban doanh nhân nữ Innobiz sẽ tổ chức giải golf tại Đà Nẵng, nên rất mong các hội viên thuộc VWEC tham dự.

Cũng để mở màn cho sự giao lưu này, bà Minh chia sẻ, nhân sự kiện lớn của doanh nhân nữ Việt Nam dự kiến diễn ra vào tháng 3/2022, VWEC sẽ mời các doanh nhân nữ Hàn Quốc tham dự nếu đoàn sang Việt Nam khớp với thời gian trên và trong trường hợp dịch Covid-19 được kiểm soát tốt.

Nguồn: vneconomy

6 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Doanh nghiệp được khuyến mại “tẹt ga” trong 2 tháng

Mọi doanh nghiệp không phân biệt ngành nghề kinh doanh, vùng miền đều được áp dụng mức khuyến mại lên đến 100% trong thời gian từ ngày 1/12/2021 đến ngày 01/01/2022…

Được tổ chức lần đầu tiên từ năm 2020, tháng khuyến mại quốc gia đã thu hút được đông đảo sự tham gia, hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp với hơn 27.450 chương trình khuyến mại.

Trong đó có gần 1.000 chương trình khuyến mại với mức khuyến mại từ 80-100%, 1.100 chương trình khuyến mại với hạn mức khuyến mại từ 60-79% và khoảng 2.500 chương trình khuyến mại với hạn mức khuyến mại từ 50-59%.

Các chương trình khuyến mại giảm giá sâu tập trung vào các ngành hàng may mặc, hàng tiêu dùng, hàng điện máy, điện tử, viễn thông… thông qua hệ thống siêu thị, hệ thống bán lẻ và sàn giao dịch thương mại điện tử.

Năm nay, tháng khuyến mại quốc gia 2021 tiếp tục được áp dụng trên toàn quốc. Mọi doanh nghiệp không phân biệt ngành nghề kinh doanh, vùng miền đều được áp dụng mức khuyến mại lên đến 100% trong thời gian từ ngày 1/12/2021 đến ngày 01/01/2022 mà không phải đăng ký tham gia với bất kỳ cơ quan nào.

Theo quy định tại Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, khoảng thời gian từ 2-31/1/2022 chính là đợt Tết Âm lịch của năm 2021-2022 (30 ngày ngay trước ngày đầu tiên của năm Âm lịch) nên các doanh nghiệp đương nhiên sẽ được quyền thực hiện các hoạt động khuyến mại với hạn mức tối đa lên đến 100%.

Như vậy, thời gian áp dụng hạn mức giá trị tối đa dùng để khuyến mại lên tới 100% trong dịp này sẽ diễn ra tới 2 tháng (từ ngày 01/12/2021 đến 31/01/2022).

Theo đạo Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương), chương trình tháng khuyến mại quốc gia sẽ tạo hiệu ứng cộng hưởng, lan tỏa giúp thúc đẩy tiêu dùng nội địa trên cả nước, thúc đẩy cung cầu, phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước, góp phần thực hiện nhiệm vụ phục hồi nền kinh tế – xã hội của cả nước.

Nguồn: vneconomy.

2 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Doanh nghiệp Nga đầu tư vào Việt Nam là viên gạch quý trong quan hệ Việt – Nga

Chủ tịch nước nhấn mạnh, những doanh nghiệp Nga đầu tư vào Việt Nam không chỉ là nhà đầu tư quốc tế mà còn là người bạn thân tình, là viên gạch quý đóng góp vào tình hữu nghị truyền thống hai nước.

Chiều 1/12 giờ địa phương, tại thủ đô Moscow, Liên bang Nga diễn ra Diễn đàn Doanh nghiệp Việt – Nga với sự tham dự của khoảng 100 doanh nghiệp Việt Nam và Liên bang Nga.

Diễn đàn là dịp để các doanh nghiệp Việt Nam giới thiệu tới các doanh nghiệp, các nhà phân phối, khách hàng tại Liên bang Nga về các sản phẩm, dự án. Đây cũng là cơ hội tốt đối với các nhà xuất khẩu của Nga, các nhà đầu tư Nga biết đến Việt Nam – điểm đến hấp dẫn, an toàn và tiềm năng.

Doanh nghiệp Nga đầu tư vào Việt Nam là viên gạch quý trong quan hệ Việt - Nga

Chủ tịch nước phát biểu tại diễn đàn.

“Việt Nam – Nga có quan hệ truyền thống rất tốt, tin tưởng lẫn nhau… thế nhưng kim ngạch hai chiều còn thấp, mới đạt trên 5 tỷ USD. Số các dự án đầu tư còn ít với 150 dự án, tổng mức đầu tư 150 tỷ USD”, Chủ tịch nước đánh giá. Ông cho rằng tiềm năng hợp tác giữa hai nước còn rất lớn.Phát biểu tại diễn đàn, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thông báo tới các doanh nghiệp, doanh nhân hai nước về cuộc hội đàm ngày hôm qua với Tổng thống Nga Putin kéo dài gần 4 tiếng để vạch ra phương hướng đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước phát triển, đi vào chiều sâu. Được tập trung thảo luận nhiều nhất là vấn đề về thương mại, đầu tư, phát triển giữa hai nước.

Ông đề nghị các doanh nghiệp cần trao đổi, các bộ ngành hai nước cần tạo điều kiện cho thương mại đầu tư trong thời gian tới, phối hợp giải quyết những vướng mắc để xứng đáng với quan hệ hai nước.

Chủ tịch nước cũng cho biết bên cạnh một số dự án tốt Nga đang triển khai thì vẫn có dự án vẫn còn vướng mắc, thực hiện chậm trễ. Chính vì thế, tại diễn đàn, Chủ tịch nước kêu gọi các doanh nghiệp Nga hợp tác chặt chẽ hơn nữa với doanh nghiệp Việt Nam.

Doanh nghiệp Nga đầu tư vào Việt Nam là viên gạch quý trong quan hệ Việt - Nga

Tuy Việt Nam gặp một số khó khăn do ảnh hưởng đại dịch nhưng kinh tế vẫn phát triển, tăng trưởng đạt trên 4,5%, kim ngạch hai chiều trên 600 tỷ USD, xuất siêu liên tục, là nền kinh tế lớn thứ 3 trong ASEAN. Chủ tịch nước cho biết điều đó nói lên kinh tế Việt Nam ổn định, lạm phát thấp. Việt Nam cũng được đánh giá là 1 trong 20 nền kinh tế thu hút đầu tư thành công.

“Tôi mong muốn các doanh nghiệp Nga sẽ nghiên cứu thị trường Việt Nam, ở chiều ngược lại doanh nghiệp Việt Nam cũng tìm hiểu thị trường Nga để hợp tác, trao đổi, làm ăn đạt kết quả tốt hơn”, Chủ tịch nước kỳ vọng.

Ngoài ra, các doanh nghiệp Nga cũng sẽ được hưởng rất nhiều cơ hội khác khi tới làm ăn ở Việt Nam vì Việt Nam đã tham gia 15 hiệp định thương mại, trong đó có nhiều hiệp định quy mô lớn, tiêu chuẩn cao như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU.

Việt Nam không chỉ đơn thuần thu hút vốn đầu tư FDI mà còn hợp tác trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển, cùng có trách nhiệm với xã hội, người lao động, bảo vệ môi trường… Cho nên, các dự án đầu tư vào Việt Nam đều được chọn lọc, ưu tiên các dự án khoa học công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số…

Doanh nghiệp Nga đầu tư vào Việt Nam là viên gạch quý trong quan hệ Việt - Nga

Chủ tịch nước chứng kiến lễ ký kết giữa Liên đoàn cờ thế giới (FIDE) với Liên đoàn cờ Việt Nam (VCF) và HDBank đồng hành cùng giải cờ vua quốc tế trong 1 thập kỷ tới.

“Làm ăn thì phải lâu dài, căn bản, bền vững cùng có lợi, chứ không phải là làm ăn chắp vá, chộp giật, nhất thời”, Chủ tịch nước truyền thông điệp đến doanh nghiệp hai nước. Ông cho rằng, sự tin cậy trong quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế Việt-Nga sẽ mở ra những chương mới trong thời gian tới.

Gợi mở một số định hướng, Chủ tịch nước nhấn mạnh vai trò của Uỷ ban liên chính phủ hai nước trong phối hợp, tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp hai bên. Việt Nam sẽ đề nghị với Nga để sửa đổi Hiệp định thương mại giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á – Âu theo hướng tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại đầu tư. Cơ quan hữu quan hai nước cũng cần khuyến khích các dòng chảy thương mại, đầu tư, phát huy thế mạnh mỗi nước; tăng cường trao đổi các đoàn doanh nghiệp khảo sát, tìm kiếm thị trường…

“Ngay chiều mai, chúng tôi sẽ mở một đường bay mới của hãng Vietjet cùng với hãng hàng không quốc gia Việt Nam đi từ Moscow tới Cam Ranh, nối với Hà Nội, TP.HCM để tạo thuận lợi cho việc đi lại”, Chủ tịch nước thông tin.

“Các bạn hãy tin tưởng rằng ở Việt Nam chính trị, xã hội, kinh tế ổn định. Việt Nam sẽ tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực, phát triển hạ tầng thuận lợi cho đầu tư phát triển”, Chủ tịch nước nói. Ông khẳng định, Việt Nam sẽ tạo chính sách ổn định, tính dự báo cao, thực thi minh bạch.

“Chúng tôi coi doanh nghiệp Nga đầu tư vào Việt Nam không chỉ là nhà đầu tư quốc tế mà còn là những người bạn thân tình. Mọi thành công của các bạn cũng là mong mỏi, niềm tự hào của chúng tôi. Các bạn chính là những viên gạch quý đóng góp vào tình hữu nghị truyền thống hai nước”, Chủ tịch nước bày tỏ.

Tán thành với trao đổi của Chủ tịch nước, Chủ tịch Liên đoàn công nghiệp và doanh nhân Nga Alexander Shokhin cho rằng hai nước không chỉ quan tâm tháo rào cản cũ mà phải luôn suy nghĩ để có cơ hội mới. Vấn đề này trong liên minh kinh tế Á – Âu do Nga chủ trì đã bàn tới.

Nguồn: vietnamnet

2 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,
Triển vọng xuất khẩu giúp doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Xuất khẩu hai tháng cuối năm tăng trưởng triển vọng là tín hiệu cho doanh nghiệp bứt tốc, theo chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh.

Tọa đàm “Bứt phá doanh thu cuối năm: Lối đi nào cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu” vừa được tổ chức bởi Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB), Đài truyền hình Việt Nam và Alibaba.com. Tọa đàm bàn luận về các vấn đề chung của doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay và đưa ra giải pháp tháo gỡ khó khăn để cán đích thành công trong quý IV.

Chương trình có sự tham gia của các diễn giả là chuyên gia kinh tế, đại diện doanh nghiệp và đại diện MSB. Tọa đàm gồm ba phần: thực trạng ngành xuất nhập khẩu hiện nay, giải pháp vay vốn không cần tài sản bảo đảm và cơ hội mở rộng thị trường cho nhóm doanh nghiệp này qua sàn thương mại điện tử.

Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính chung 10 tháng năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa vẫn duy trì tốc độ tăng cao, đạt 537,31 tỷ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 10, xuất siêu đã đạt 1,1 tỷ USD, kéo cán cân thương mại hàng hóa xuống còn nhập siêu 1,45 tỷ USD sau 10 tháng.

Dự báo về triển vọng xuất khẩu thời gian tới, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh nhận định, hai tháng cuối năm, tình hình xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng tốt, dự kiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sẽ đạt khoảng 600 tỷ USD. Đây là điểm sáng trong bức tranh kinh tế và là tín hiệu tốt cho thấy sự phục hồi của doanh nghiệp.

Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ tại Tọa đàm

Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ tại tọa đàm.

Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đang thuận lợi khi doanh nghiệp tiếp tục khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA), cùng với nhu cầu thị trường đang tăng vào dịp mua sắm cuối năm.

Tuy nhiên, nhưng ngành xuất nhập khẩu được đánh giá còn tồn tại khó khăn. Thứ nhất, dịch Covid-19 nói chung và làn sóng thứ 4 vừa qua vẫn để lại nhiều hệ quả như việc đứt gãy chuỗi cung ứng, sụt giảm về nguồn lao động, giá nguyên vật liệu và cước phí vận chuyển tăng cao. Bên cạnh đó là những tiêu chí khắt khe của thị trường nước ngoài để đảm báo tính ổn định của đơn hàng.

Thứ hai, bản thân doanh nghiệp Việt vẫn luôn phải đối diện với một số tồn tại về vốn, pháp lý và phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Trong đó, vấn đề về vốn vay được coi là thách thức lớn khi doanh nghiệp dừng sản xuất, đơn hàng đối tác chậm thanh toán hay hàng hóa khó tiêu thụ dẫn đến phải tồn kho.

Tăng trưởng xuất khẩu giúp doanh nghiệp bứt tốc cuối năm - 2

Ông Trần Văn Lê – Tổng giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Cơ điện và Thương Mại Phương Linh chia sẻ về khó khăn của doanh nghiệp.

Cơ hội bứt tốc từ vốn vay không tài sản bảo đảm

Sau thời gian dài chịu tác động của dịch bệnh, sức khỏe tài chính của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng đều hạn chế. Theo ông Trần Văn Lê – Tổng giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Cơ điện và Thương Mại Phương Linh, điểm tựa doanh nghiệp nghĩ tới đầu tiên tại thời điểm này là ngân hàng. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn với đa phần các nhà băng đều khó khăn, do những tiêu chí khắt khe về kết quả kinh doanh, tài sản bảo đảm hay phương án triển khai sau vay vốn phải được đánh giá là khả thi…

“Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn chịu áp lực từ việc gia tăng chi phí, mức tăng khoảng từ 30% đến hàng trăm phần trăm”, ông Trần Văn Lê cho biết.

Ở góc độ ngân hàng, ông Nguyễn Trọng Tĩnh – Giám đốc Trung tâm Kênh phân phối và bán hàng, Ngân hàng Doanh nghiệp – Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam MSB, chia sẻ, cơ hội vay vốn của doanh nghiệp tại MSB đã mở rộng. Khách hàng doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có cơ hội nhận hạn mức tín chấp tới 200 tỷ đồng, trong đó hạn mức vay tối đa đến 100 tỷ đồng. Cấp tín chấp tiếp cận ban đầu tới 500 triệu đồng với hình thức thẻ tín dụng doanh nghiệp, tới 2 tỷ đồng cho thấu chi doanh nghiệp, cho vay tới 5 tỷ đồng, tùy theo quy mô đơn vị cùng nhiều hình thức tín dụng khác.

Dựa trên đơn hàng xuất nhập khẩu, MSB có thể tài trợ trước giao hàng tới 90% giá trị hợp đồng hoặc L/C xuất khẩu, chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu tới 98% giá trị bộ chứng từ, tài trợ hợp đồng đầu ra đến 80% giá trị hợp đồng đầu ra.

Ông Nguyễn Trọng Tĩnh cũng cho biết, để san sẻ áp lực cùng khách hàng, MSB hỗ trợ cho vay với lãi suất từ 2,5% với khoản vay USD và từ 5,5% với khoản vay VND. Ngoài ra, doanh nghiệp còn được miễn 100% phí quản lý tài khoản, giao dịch Internet Banking/Mobile Banking, nộp thuế điện tử 24/7; giảm đến 30% phí tài trợ thương mại; giảm 40% phí giao dịch tiền mặt, chuyển tiền trong nước, dịch vụ ngân quỹ, thu chi hộ; giảm 30% phí chuyển tiền quốc tế.

Ông Nguyễn Trọng Tĩnh – Đại diện Ngân hàng MSB

Ông Nguyễn Trọng Tĩnh – đại diện MSB.

Động lực tăng trưởng từ sàn thương mại điện tử

Tọa đàm cũng đề cấp đến sự chuyển đổi từ hình thức xuất khẩu truyền thống sang sàn thương mại điện tử. Năm 2020, giao dịch, thanh toán trực tuyến và tổng giá trị giao dịch (GMV) của Việt Nam trên Alibaba.com tăng ba chữ số.

Đại diện Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam cho biết, MSB đã trở thành đối tác toàn diện của Alibaba.com tại thị trường Việt Nam, thực hiện cung cấp sản phẩm, dịch vụ như tài khoản, thẻ, ngân hàng trực tuyến, sản phẩm bảo hiểm – đầu tư, dịch vụ ngân hàng ưu tiên… cho các khách hàng thuộc phân khúc doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ trên sàn Alibaba.com. Khách hàng tham gia chương trình đối tác sẽ được hoàn tiền khi thanh toán phí thành viên bằng thẻ MSB Visa Business.

Các chuyên gia đánh giá, thương mại điện tử xuyên biên giới sẽ còn mở rộng hơn, nhất là trong bối cảnh Hiệp định EVFTA đã có hiệu lực. Tuy nhiên, cơ hội luôn đi kèm thách thức. Để hàng hóa Việt Nam xuất khẩu thành công trên các kênh thương mại điện tử quy mô toàn cầu, doanh nghiệp cần nắm vững các quy định về chất lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, chính sách liên quan tới nhập khẩu và pháp lý của thị trường này, đảm bảo hàng hóa đủ chứng từ, chứng nhận phù hợp với yêu cầu. Đồng thời, nhà bán hàng phải hiểu rõ cách vận hành logistics, bảo quản hàng hóa và tính toán được phương án vận chuyển tối ưu, chi phí thấp đểcạnh tranh tại thị trường quốc gia nhập khẩu.

Từ phía MSB, ông Nguyễn Trọng Tĩnh cho biết, ngân hàng sẽ tư vấn khách hàng xử lý chứng từ nhanh chóng thông qua đội ngũ chuyên gia về thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại. Nhà băng này còn hỗ trợ doanh nghiệp những dự báo mang tính xu hướng nhằm giảm thiểu rủi ro biến động tỷ giá từ thời điểm chốt đơn đến khi thanh toán hợp đồng.

Các chuyên gia nhận định, với tín hiệu tích cực của thị trường cũng như trợ lực từ ngân hàng như MSB, doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể kỳ vọng vào sự tăng trưởng tốt trong những tháng cuối năm.

An Nhiên

1 Tháng Mười Hai, 2021 / by / in ,